Sức khỏe và đời sống hôm nay

Sức khỏe và đời sống

Các dấu hiệu tuyệt đối không thể bỏ qua của bệnh bạch hầu

Thời gian gần đây, việc liên tiếp xuất hiện các ổ bệnh bạch hầu tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông khiến người dân không khỏi lo lắng, hoang mang. Vậy bệnh này nguy hiểm thế nào, làm cách nào để nhận biết và phòng tránh bệnh hiệu quả?

Chiều 23/6, ông Hà Văn Hùng (Phó Giám đốc Sở Y tế Đắk Nông) cho biết, tại xã Đắk Rmăng (huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông) vừa xuất hiện thêm một ổ dịch mới. Đây là ổ dịch lớn thứ ba trên địa bàn.

Theo Pháp luật TP.HCM, tính đến thời điểm hiện tại đã có 12 ca dương tính với bệnh bạch hầu, trong đó 4 ca bệnh tại huyện Krông Nô, 5 ca ở xã Quảng Hòa (nơi là ổ dịch thứ hai) và 3 ca mới ở xã Đắk R’măng.

Trong số các ca dương tính được phát hiện, 1 trường hợp đã Tu vong là cháu S.T.H (9 tuổi, ở xã Quảng Hòa). Trước đó, do thấy cháu bị đau họng, ho, khó thở,… nên gia đình đã đưa đến BVĐK tỉnh Đắk Nông thăm khám. Do bệnh diễn biến nặng nên bé tiếp tục được đưa đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM để điều trị nhưng không may Tu vong sau đó.

Tại ổ dịch ở xã Đắk R’măng có 1 ca bệnh có triệu chứng nặng là trường hợp Giàng A Ph. (SN 2007). Sau đó qua thăm khám, các đơn vị chức năng phát hiện thêm cũng tại ổ dịch này 2 trường hợp khác là cháu Thào A T. (SN 2010) và ông Giàng A P. (SN 1979) cũng dương tính với bệnh bạch hầu. Hiện các bệnh nhân đã được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên điều trị. Tính đến chiều 23/6, các cơ quan chức năng đã phải tiến hành cách ly tổng cộng hơn 1.200 người.

Trước diễn biến ngày càng nghiêm trọng của bệnh bạch hầu chúng ta cần tìm hiểu nguyên nhân, các dấu hiệu nhận biết để có cách phòng ngừa hiệu quả nhất.

Bệnh bạch hầu là gì?

Bạch hầu (tên tiếng Anh: Diphtheria) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Đây là bệnh nhiễm trùng nguy hiểm do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, có tốc độ lây lan nhanh chóng tạo thành dịch. Bệnh có thể xuất hiện trên da hoặc ở các màng niêm mạc khác như bộ phận Sinh d*c hoặc kết mạc mắt gây tổn thương nhiều cơ quan của cơ thể.

Bệnh truyền trực tiếp từ người sang người qua đường hô hấp (khi ho,hắt hơi) hoặc gián tiếp qua đồ chơi, vật dụng bị dính dịch bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sau khoảng 2 tuần kể từ khi bị nhiễm vi khuẩn, dù không có các triệu chứng rõ rệt thì bệnh nhân vẫn có khả năng lây nhiễm cho người khác.

Vi khuẩn bạch hầu gây ảnh hưởng chủ yếu đến họng và mũi. Khi bị nhiễm khuẩn, các độc tố trong vi khuẩn bạch hầu sẽ xâm nhập vào máu, gây ra các lớp màng dày, màu xám ở: Mũi, họng, lưỡi, khí quản. Trong một số trường hợp, các độc tố này có thể gây tổn thương các cơ quan khác trong cơ thể như tim, não và thận gây nên những biến chứng nguy hiểm như viêm cơ tim, liệt hoặc suy thận.

Những người nào có nguy cơ cao mắc bệnh?

Thông thường, trẻ em được tiêm phòng bạch hầu từ khi mới sinh nên tỉ lệ mắc bệnh rất thấp. Tuy nhiên, ở những nơi có tỉ lệ tiêm chủng bạch hầu thấp thì bệnh vẫn có khả năng lây lan và bùng phát thành dịch. Ngoài trẻ em dưới 5 tuổi, người trên 60 tuổi thì những người không được tiêm vắc-xin đầy đủ, đúng lịch; đi đến nơi không tổ chức tiêm vắc-xin bạch hầu, mắc các rối loạn miễn dịch (bị AIDS), sống trong môi trường không đảm bảo vệ sinh hoặc đông đúc, chật hẹp là những người có nguy cơ cao dễ mắc bệnh bạch hầu.

Dấu hiệu nhận biết bệnh bạch hầu

Những triệu chứng của bệnh bạch hầu thường xuất hiện trong vòng 2-5 ngày sau khi bị nhiễm vi khuẩn. Một số người không biểu hiện rõ rệt trong khi số khác sẽ xuất hiện các triệu chứng nhẹ, thường bị nhầm lẫn là cảm lạnh thông thường. Các triệu chứng dễ nhận thấy nhất của bệnh bạch hầu là sốt, ớn lạnh, đau họng, ho, khàn tiếng, chán ăn. Sau 2-3 ngày, xuất hiện giả mạc (các mảng dính, nhớt) màu trắng ngà, xám hoặc đen ở hai bên thành họng và amidan. Giả mạc dai, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để nhận biết bệnh bạch hầu.

Nếu bệnh diễn tiến nặng bệnh nhân có thể cảm thấy khó thở, khó nuốt, sưng to ở cổ, thay đổi thị lực, nói lắp, da xanh xao, vã mồ hôi, rối loạn nhịp tim. Bệnh có thể qua khỏi hoặc ngày càng trầm trọng và khiến bệnh nhân Tu vong trong vòng 6 đến 10 ngày.

Bệnh bạch hầu được chia thành 4 thể lâm sàng: Bạch hầu họng thể thông thường (70%), bạch hầu ác tính, bạch hầu thanh quản (26%), bạch hầu mũi (4%).

Bạch hầu họng thể thông thường: Thời kỳ ủ bệnh 2-5 ngày thường không có triệu chứng lâm sàng. Sau đó người bệnh bị sốt nhẹ (38-38,5 độ C), sổ mũi, niêm mạc họng đỏ. Xuất hiện các chấm trắng mờ và mỏng, hạch dưới hàm đau và sưng to. Sau 2-3 ngày bệnh nhân cảm thấy nuốt vướng, đau cổ họng, mệt mỏi, xanh xao. Trong họng có nhiều màng trắng đục, dính vào lớp thượng bì bên dưới, khi bóc ra rất dễ chảy máu. Ở tình trạng nghiêm trọng da người bệnh trở nên xanh tái, mạch nhanh, huyết áp hạ.

Bạch hầu ác tính (gồm 2 thể):

-Thể tiên phát xuất hiện trong 1-2 ngày đầu với triệu chứng sốt cao (39-40 độ C) mệt mỏi, da xanh, nôn, nuốt đau, giả mạc lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch cổ sưng to. Bệnh nhân dần tím tái, sốt cao, xuất huyết nhiều nơi, khi uống nước bị sộc ra mũi, huyết áp hạ, mạch nhanh, thậm chí có thể dẫn đến Tu vong.

-Thể thứ phát xuất hiện sau bạch hầu họng thông thường do điều trị muộn.

Bạch hầu thanh quản: Thường do bạch hầu họng thể thông thường lan xuống, bệnh thường gặp ở trẻ còn bú mẹ. Triệu chứng ban đầu là vẻ mặt sợ hãi, ho khàn, thở rít, co kéo hõm ức. Tình trạng khó thở ngày càng tăng, nếu không điều trị kịp thời có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Bạch hầu mũi: Hiếm gặp, thường gặp ở trẻ còn bú mẹ. Biểu hiện khởi phát là chảy nước mũi nhẹ, kéo dài vài ngày, có khi nước mũi lẫn máu. Triệu chứng có thể nhẹ nhưng vẫn có thể khiến bệnh nhân bị lở trong lỗ mũi và cánh mũi.

Cách phòng chống bệnh bạch hầu

Cho đến thời điểm này, tiêm vắc-xin vẫn là giải pháp phòng bệnh bạch hầu hiệu quả và an toàn nhất. Tuy nhiên, nếu chưa tiêm vắc- xin và tiếp xúc với vi khuẩn thì vẫn có thể nhiễm bệnh. Để phòng chống bệnh bạch hầu, người dân cần tuân thủ các biện pháp sau:

- Cho trẻ tiêm chủng vắc- xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu đầy đủ, đúng lịch.

- Thường xuyên sát khuẩn tay bằng xà phòng; che kín miệng khi ho và hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, (đặc biệt là mũi, họng); tránh tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.

- Giữ không gian xung quanh thoáng mát, sạch sẽ.

- Nếu xuất hiện các triệu chứng trên người bệnh phải nhanh chóng được đưa đi cách ly và đến các cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.

- Người dân trong vùng dịch phải tuân thủ nghiêm túc việc uống Thu*c phòng và tiêm vắc-xin theo chỉ định, yêu cầu của cơ quan y tế.

Minh Hoa (t/h)

Mạng Y Tế
Nguồn: Người đưa tin (https://www.nguoiduatin.vn/cac-dau-hieu-tuyet-doi-khong-the-bo-qua-cua-benh-bach-hau-a480013.html)

Tin cùng chuyên mục

Tin cùng nội dung

  • Không dùng dung dịch lidocain 2% để điều trị đau miệng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị đau răng… vì có thể gây ra tác hại nghiêm trọng, kể cả Tu vong. Đó là thông tin cảnh báo về an toàn dùng Thu*c mà FDA vừa đưa ra.
  • Người đối diện có thể thấy rõ cúp áo ngực mấp mô sau lớp áo phông của bạn; luôn thấy có vết lằn áo trên da, dây áo hay bị rơi khỏi vai... là lúc bạn nên thay áo lót.
  • Khó nuốt có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Nếu khó nuốt, bạn hãy đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt, vì nguyên nhân gây ra khó nuốt có thể là do một bệnh lý nặng như ung thư thực quản.
  • Những triệu chứng bệnh nha khoa phổ biến.
  • Suyễn là tình trạng viêm mạn tính đường hô hấp. Đường hô hấp của những trẻ bị suyễn rất nhạy cảm với các chất mà trẻ bị dị ứng (dị nguyên) và các chất kích thích khác có trong không khí.
  • Dị ứng ở trẻ là tình trạng liên quan đến hệ thống miễn dịch, dù dị ứng nặng hay nhẹ, có nhiều cách để có thể ngăn ngừa hoặc kiểm soát các dạng dị ứng
  • Viêm thanh khí phế quản là một tình trạng nhiễm trùng làm phần bên trong cổ họng trẻ sưng phồng, gây khó thở cho trẻ. Cần đưa trẻ đi bác sĩ nếu có triệu chứng viêm thanh khí phế quản.
  • Thiếu máu là một tình trạng đôi khi có thể xảy ra ở trẻ nhỏ. Tình trạng này có thể làm cho con bạn quấy chướng, mệt mỏi và suy yếu.
  • Ung thư tuyến giáp ở trẻ em là bướu nội tiết ác tính dạng đặc thường gặp thứ 3 và phổ biến nhất ở trẻ em.
  • Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder: ADHD) là một rối loạn mạn tính ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ và thường tồn tại đến tận tuổi trưởng thành. ADHD bao gồm một phức hợp các vấn đề chẳng hạn như khó khăn trong việc duy trì sự tập trung, tăng động (hiếu động thái quá) và có hành vi bốc đồng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY