Hỏi đáp dịch vụ y tế hôm nay

Hỏi đáp dịch vụ y tế

Hiểu đúng về các bệnh viêm khớp (kỳ 3)

Sự ra đời của các Thu*c sinh học đã tạo ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên sinh học trong điều trị viêm khớp dạng thấp
viêm khớp dạng thấp luôn là nỗi ám ảnh và thách đố cho cả thầy Thu*c và bệnh nhân vì sự khó khăn, tốn kém và hạn chế trong kết quả điều trị. Kỳ này chúng tôi giới thiệu: trị liệu sinh học - cuộc cách mạng trong điều trị viêm khớp dạng thấp.

Y học thời tiền sử: qua nghiên cứu các bộ xương cổ, các nhà khoa học đã khẳng định, bệnh viêm khớp dạng thấp (VKDT) đã tồn tại ở con người trên 3.000 năm nay.

Từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Hippocrate đã sử dụng nước chiết từ lá cây dương liễu để hạ sốt và giảm đau do các bệnh viêm khớp.

Từ cuối thế kỷ 18, nhân loại đã tìm ra được hoạt chất có tác dụng kháng viêm giảm đau và hạ sốt trong nước chiết từ lá cây dương liễu là axít salicylic và sau đó tổng hợp được axít salicylic (sản phẩm aspirin từ năm 1853).

Từ thập niên 40 của thế kỷ 20, thời kỳ Y học dựa theo kinh nghiệm (empirical medicine), để điều trị VKDT, ngoài aspirin để làm giảm đau và viêm, nhiều bệnh nhân (thường là người giàu, ở phương Tây) còn phải dùng đến muối vàng chích để khống chế sự tiến triển của bệnh.

Ở thập niên 50, sự ra đời cortisol, Thu*c kháng viêm nhóm glucocorticoid, đã mang lại nhiều hy vọng cho bệnh VKDT vì làm giảm viêm, giảm đau nhanh và mạnh vì thế ngay lập tức một giải Nobel y học đã được trao cho BS. Hench. Tuy nhiên, sau đó, chúng ta đều nhận ra là nhóm Thu*c này không làm chậm hoặc làm ngưng tiến trình của bệnh.

Từ thập niên 70 của thế kỷ 20, thời kỳ Y học dựa trên bằng chứng (evidence based medicine) để điều trị VKDT:

- Chúng ta đã có một loạt Thu*c kháng viêm không steroid (được tổng hợp trên cơ sở cơ chế ức chế prostaglandin của aspirin) để làm giảm đau và viêm.

- Để làm chậm sự tiến triển của bệnh, chúng ta đã nhóm Thu*c có thể làm thay đổi diễn tiến của bệnh VKDT như Methotrexate, Sulfasalazine,Hydroxychloroquine…Trong đó, Methotrexate là Thu*c quan trọng nhất và đã trở thành điều trị “tiêu chuẩn vàng” (gold standard) cho bệnh VKDT.

Từ những năm cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu tiên của thế kỷ 21 là thời kỳ từ Y học dựa trên bằng chứng chuyển dần sang Y học dựa trên cơ chế bệnh sinh, rất nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật mà loài người đạt được đã làm thay đổi diện mạo của thế giới trên rất nhiều lĩnh vực, trong đó có Y học. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Liên Hợp quốc đã giành trọn thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 làm Thập niên Xương và Khớp (Bone and Joint Decade) với rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực này.

- Trước hết phải nói đến tiến bộ trong nhận thức và hiểu biết của con người về cơ chế bệnh sinh của từng bệnh. Nhiều cơ chế bệnh sinh phức tạp của một số bệnh lý cơ xương khớp quan trọng đã được giải mã dần (các bệnh lý hệ thống như: VKDT, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến, viêm khớp vô căn ở trẻ em…, thoái hóa khớp, loãng xương, viêm khớp gút, Fibromyalgia)…

- Các tiêu chuẩn chẩn đoán được cải tiến, giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh được sớm hơn, chặt chẽ hơn.

- Thu*c kháng viêm ức chế chọn lọc men COX 2 an toàn hơn với đường tiêu hóa và không tăng nguy cơ tim mạch (so với các Thu*c kháng viêm không steroid cổ điển), thích hợp hơn cho các bệnh nhân bị bệnh kéo dài (VKDT, viêm cột sống dính khớp, thoái hóa khớp)… thường phải sử dụng Thu*c dài ngày.

Thu*c sinh học và kỷ nguyên sinh học

Các Thu*c sinh học là các tự kháng thể hoặc các protein hòa tan, được sản xuất theo con đường sinh học thông qua hoạt động của các tế bào hoặc cơ thể sống, các Thu*c sinh học nhằm tác động vào những mắt xích quan trọng trong cơ chế bệnh sinh phức tạp của bệnh, VKDT, còn gọi là điều trị nhắm đích (target therapy). Hiện nay, các tác nhân sinh học đang mang “cuộc cách mạng” trong điều trị VKDT và các bệnh tự miễn hệ thống liên quan vì làm thay đổi được tiên lượng bệnh, tăng khả năng lui bệnh và nâng cao chất lượng sống cho nhiều bệnh nhân, đặc biệt các bệnh nhân nặng, không hoặc kém đáp ứng với các trị liệu kinh điển.

Các Thu*c sinh học cho viêm khớp bao gồm:

1. Các Thu*c ức chế yếu tố hoại tử u nhóm alpha (anti TNF).

- Infliximab (Remicade): đã có mặt ở Việt Nam.

- Adalimumab (Humira): đã có mặt ở Việt Nam.

- Etanercept (Enbrel): đã có mặt ở Việt Nam.

- Golimumab (Simponi): sắp có mặt ở Việt Nam.

- Certolizumab (Cimzia).

2. Thu*c ức chế Interleukin 6, Tocilizumab (Actemra): đã có mặt ở Việt Nam.

3. Thu*c ức chế tế bào B, Rituximab (Mabthera): đã có mặt ở Việt Nam.

4. Thu*c ức chế tế bào T, Abatacept (Orencia).

Sự ra đời của các Thu*c sinh học đã tạo ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên sinh học trong điều trị VKDT. Sau khi được sử dụng thành công cho bệnh VKDT, các Thu*c sinh học được áp dụng cho các bệnh viêm khớp hệ thống liên quan như: viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến, vảy nến… Tuy nhiên, với các nhóm bệnh sau này, chỉ có các Thu*c kháng TNF a là có hiệu quả

Tuy có mặt ở Việt Nam hơi trễ, và việc sử dụng còn chưa được rộng rãi, nhưng các Thu*c sinh học đã làm thay đổi tiên lượng cho nhiều bệnh nhân nặng, mở ra hy vọng làm lui bệnh và cải thiện chất lượng sống cho người bệnh. Hiệu quả của Thu*c sẽ gắn liền với việc chẩn đoán bệnh chính xác, chỉ định điều trị đúng, kịp thời, quản lý và theo dõi chặt chẽ.

Với chính sách mới về Bảo hiểm y tế, từ ngày 1/1/2015, một số Thu*c sinh học chính như : Infliximab (Remicade), Etanercept (Enbrel), Tocilizumab (Actemra) đã được thanh toán 50% cho các bệnh nhân bệnh đang tiến triển, không hoặc kém đáp ứng với các điều trị kinh điển, khi điều trị tại các bệnh viện có chuyên khoa thấp khớp học.

Hy vọng trong tương lai, với sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế, ngày càng có nhiều bệnh nhân VKDT (và các bệnh viêm khớp hệ thống liên quan) đang tiển triển (nặng) được tiếp cận sớm với trị liệu tiên tiến này, để giảm thiểu gánh nặng bệnh tật (tàn phế) cho người bệnh, gánh nặng kinh tế cho gia đình họ và cho toàn xã hội.

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-hieu-dung-ve-cac-benh-viem-khop-ky-3-13713.html)

Tin cùng nội dung

  • Gần 3 tháng triển khai hình thức mua bảo hiểm y tế (BHYT) hộ gia đình theo quy định của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT),
  • Viêm khớp thái dương hàm là một bệnh khá phổ biến, bệnh có thể gặp ở cả trẻ em. Bệnh tuy không nguy hiểm nhưng gây nhiều phiền hà trong ăn...
  • Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là bệnh hay gặp, nhất là ở người cao tuổi, nữ mắc nhiều hơn nam. Đây là nguyên nhân hàng đầu trong nhóm bệnh lý khớp viêm gây tàn phế, mất khả năng vận động và tăng nguy cơ Tu vong ở người cao tuổi.
  • Với tính chất tự miễn, viêm khớp dạng thấp (VKDT) còn gọi là viêm đa khớp dạng thấp tác động đến nhiều khớp và nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể nhưng biểu hiện rõ nhất là tại khớp.
  • Viêm khớp là bệnh thoái hóa của khớp, một phần vì sự hư tổn với thời gian sử dụng, nhưng cũng gây ra do nếp sống của con người và sự không có hiểu biết rõ ràng về bệnh. Viêm khớp là rối loạn thường thấy ở người cao tuổi. Bệnh cũng xảy ra ở lớp tuổi trung niên, thậm chí trẻ hơn.
  • Cùng có triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau tại các khớp nên nhiều bệnh nhân dễ nhầm VKDT với bệnh gút, dẫn tới điều trị không đúng cách, khiến bệnh ngày càng nặng.
  • Giúp bạn hạ nhanh cơn đau do viêm khớp nhưng lại gây tổn thương cho dạ dày, vì vậy, bạn cần hết sức cẩn trọng khi dùng Thuốc Diclofenac.
  • Theo y học cổ truyền, nam ngưu tất có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, tác dụng bổ thận, mạnh gân cốt được sử dụng để chữa viêm khớp
  • Viêm khớp dạng thấp là một tình trạng viêm mãn tính thường ảnh hưởng đến các khớp nhỏ ở bàn tay và bàn chân. Không giống như các tổn thương có tính hao mòn trong thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng đến lớp lót trong của bao khớp, gây ra sưng đau, cuối cùng có thể dẫn đến mòn xương và biến dạng khớp.
  • Thay vì bán thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) riêng lẻ, nay người dân muốn mua BHYT phải mua theo hộ gia đình.