siêu âm, chụp mri, phân tích dịch khớp,… là những phương pháp xác định tràn dịch khớp được áp dụng phổ biến. bác sĩ sẽ xem xét triệu chứng lâm sàng để chỉ định biện pháp chẩn đoán thích hợp.
Tràn dịch khớp là tình trạng tăng tiết của màng bao hoạt dịch khiến dịch khớp tràn ra bên ngoài, gây sưng nóng và đau nhức.
Các biểu hiện bên ngoài của bệnh thường không đặc trưng nên rất dễ bị nhầm lẫn với viêm màng bao hoạt dịch, viêm khớp, gout, chấn thương,… vì vậy để xác định đúng tình trạng, bác sĩ sẽ yêu cầu thực hiện các biện pháp chẩn đoán cần thiết.
Siêu âm là kỹ thuật chẩn đoán sử dụng tần số cao nhằm hiển thị hình ảnh ở các cơ quan bên trong cơ thể.
Tuy nhiên hình ảnh từ siêu âm không phản ánh chi tiết và rõ nét cấu trúc xương, vì vậy bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân chụp X-Quang.
X-Quang là kỹ thuật sử dụng tia X để hiển thị hình ảnh chi tiết của xương và một số cơ quan khác. Kỹ thuật này cho phép bác sĩ quan sát được hình dạng và mật độ cấu trúc bên trong xương.
Thông qua hình ảnh từ x-quang, bác sĩ có thể loại trừ các tình trạng bệnh lý có triệu chứng tương tự tràn dịch khớp gối như chấn thương, gãy/ nứt xương, loãng xương, hoại tử vô khuẩn, lao xương khớp, viêm xương tủy, u xương ác tính,…
Thông thường, bệnh nhân tràn dịch khớp gối có cấu trúc xương và mật độ xương bình thường. tuy nhiên một số trường hợp bị tràn dịch khớp do hệ quả của quá trình thoái hóa, gai xương có thể hình thành ở những vị trí sụn bọc bị bào mòn.
Chụp cắt lớp vi tính là kỹ thuật sử dụng cùng lúc nhiều tia X nhằm hiển thị hình ảnh cắt ngang của các cơ quan trong cơ thể. CT chủ yếu được sử dụng để chẩn đoán các bệnh về mạch máu – não và ít khi được thực hiện cho bệnh nhân mắc bệnh xương khớp.
Tuy nhiên bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện chụp CT nếu nghi ngờ khớp sưng viêm do hoại tử vô mạch hoặc u xương ác tính.
Cần thận trọng khi thực hiện chụp cắt lớp vi tính cho phụ nữ đang mang thai – nhất là trong 3 tháng đầu thai kì. Ngoài ra, hình ảnh từ CT chỉ giúp bác sĩ quan sát được mạch máu – mô mềm và khó phát hiện được tổn thương ở dây chằng, sụn khớp. Vì vậy CT thường được thực hiện phối hợp với chụp cộng hưởng MRI.
Chụp cộng hưởng MRI sử dụng sóng từ trường và sóng radio nhằm hiển thị hình ảnh rõ nét các mô mềm ở bên trong cơ thể. Hình ảnh từ MRI được đánh giá có độ tương phản quang cao, chi tiết và sắc nét hơn so với X-Quang, siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính.
Hình ảnh từ mri cho phép bác sĩ quan sát cấu trúc ổ khớp, sụn khớp, mô mềm xung quanh và dây chằng. thông qua hình ảnh này bác sĩ có thể xác định được các bệnh lý như rách, giãn dây chằng, viêm nhiễm, thoái hóa và tràn dịch khớp.
Phân tích dịch khớp được thực hiện nếu bác sĩ nghi ngờ tình trạng viêm ở đầu gối là do viêm khớp dạng thấp, gout hoặc nhiễm trùng.
Dịch khớp được chọc hút bằng kim tiêm và quan sát dưới kính hiển vi. Ở bệnh nhân bị nhiễm trùng, dịch khớp thường có mủ, dịch vàng và có sự hiện diện của vi khuẩn.
Trong khi đó, dịch khớp ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có chứa nhiều tế bào bạch cầu và kháng thể từ hệ miễn dịch. Nếu khớp sưng do bệnh gout, dịch khớp thường có nồng độ acid uric cao và có thể xuất hiện các tinh thể muối urat. Trong một số trường hợp, dịch khớp kèm theo máu tươi có thể là biểu hiện của chấn thương khớp nghiêm trọng.
Bài viết đã tổng hợp một số phương pháp xác định tràn dịch khớp gối phổ biến. trên thực tế, bác sĩ có thể linh động yêu cầu người bệnh thực hiện các thủ thuật khác không được đề cập trong bài viết.
Mục đích của việc áp dụng các biện pháp chẩn đoán là giúp bác sĩ quan sát biểu hiện của khớp và đưa ra kết luận cuối cùng. Vì vậy bạn cần tuân thủ theo yêu cầu của bác sĩ để được chẩn đoán chính xác tình trạng sức khỏe và tiến hành điều trị kịp thời.