Sức khỏe hôm nay

rối loạn tâm thần hay gặp ở học sinh, sinh viên

Các nghiên cứu ở Việt Nam gần đây cho thấy, trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở học sinh, sinh viên.
Các nghiên cứu ở Việt Nam gần đây cho thấy, trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở học sinh, sinh viên. Với học sinh trung học phổ thông, tỷ lệ trầm cảm là 5% số học sinh, tỷ lệ này ở sinh viên các trường cao đẳng, đại học khu vực phía Bắc là 7%, nữ nhiều gấp đôi nam. Bệnh hiếm khi khởi phát ở tuổi dưới 15, tỷ lệ bệnh tăng nhanh theo lứa tuổi và khá phổ biến ở độ tuổi 20. Bệnh trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây ra tự sát ở lứa tuổi này (chiếm 75% số trường hợp tự sát).

Nét mặt buồn bã, đơn điệu. Nhưng cũng có thể là dễ cáu gắt vô cớ. Mất hầu hết các sở thích vốn có. Mệt mỏi không lý do, nhất là về buổi sáng. Khó ngủ, dễ thức giấc khi ngủ, thức dậy sớm hoặc có thể là ngủ quá nhiều (trên 10 giờ mỗi ngày).

Chán nản, bi quan, tự ti (cho mình là kém cỏi so với bạn bè, là gánh nặng cho gia đình và nhà trường).

Khó tập chung chú ý nên khả năng ghi nhớ rất kém. Vì vậy, bệnh nhân học hành sút kém hẳn so với trước.

Ăn ít, mất cảm giác ngon miệng, chán ăn, sút cân. Nhưng cũng có thể bệnh nhân ăn quá nhiều dẫn đến béo phì. Vận động chậm chạp hoặc kích động.

Ý nghĩ về cái ch*t (mất ngủ, mệt mỏi thế này thì ch*t mất), ý nghĩ muốn ch*t (ch*t quách đi cho nhẹ gánh gia đình và nhà trường) hoặc đã có hành vi tự sát (bằng Thu*c ngủ, Thu*c độc, khí gas, dây thừng, dao, đuối nước, nhảy từ trên cao xuống...).

Nếu trẻ có những triệu chứng trên, kéo dài trên 2 tuần thì nhiều khả năng cháu bị trầm cảm. Cần nhanh chóng đưa cháu đến khám tại bác sĩ tâm thần để xác định bệnh. Lưu ý: không được nhầm lẫn giữa bác sĩ tâm thần với bác sĩ thần kinh hoặc các nhà tâm lý.

Tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt chiếm 1% ở tuổi học đường. Tỷ lệ bệnh bằng nhau ở nam và nữ. Bệnh có thể khởi phát ở bất cứ lứa tuổi nào, nhưng hay gặp nhất là độ tuổi 20 ở nam và 25 ở nữ. Đây là bệnh tâm thần nặng nhất trong các bệnh tâm thần ở tuổi học đường, rất khó điều trị, khó hồi phục, điều trị tốn kém và phải điều trị suốt đời. Việc phát hiện ra bệnh càng sớm thì khả năng điều trị tốt càng cao! Bệnh có các triệu chứng:

Bệnh nhân nghe thấy có tiếng một hoặc nhiều người nói chuyện trong đầu bệnh nhân hoặc từ bên ngoài vọng vào đầu (tất nhiên là khi đó không hề có ai đang nói cả). Tiếng nói có thể trò chuyện với bệnh nhân (chúng ta thấy bệnh nhân nói chuyện một mình), các tiếng người có thể nói chuyện với nhau, bình phẩm (khen, chê) về các hành vi của bệnh nhân, xui khiến bệnh nhân làm một việc gì đó (có thể là hành vi tự sát, đánh người…). Các triệu chứng này trong tâm thần học gọi là ảo thanh.

Có ý nghĩ sai lầm rằng ai đó đang theo dõi bệnh nhân (bằng camera, vệ tinh, tia vũ trụ…), định làm hại bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, điều khiển mọi hành vi của bệnh nhân, ăn cắp ý nghĩ của bệnh nhân. Đôi khi bệnh nhân cho rằng mình có thể điều khiển được thời tiết, kiểm soát cả thế giới! Các ý nghĩ sai lầm này luôn cố định trên bệnh nhân (lúc nào cũng có), chi phối mọi hành vi của bệnh nhân (như không dám đi chơi, đi học vì sợ bị theo dõi, bị làm hại). Trong tâm thần học, các triệu chứng này được gọi là hoang tưởng.

Các triệu chứng trên kéo dài trên 1 tháng và bệnh nhân không có tiền sử chấn thương sọ não hoặc nghiện M* t*y nhóm kích thần (ecstasy - M* t*y đá).

Trẻ cần phải được gặp bác sĩ tâm thần để được khám và phát hiện bệnh kịp thời nếu có các biểu hiện trên.

Bệnh nhân cần được điều trị bằng Thu*c an thần kéo dài suốt đời. Nếu ngừng Thu*c hoặc uống Thu*c không đủ liều, bệnh sẽ tái phát sau một vài ngày đến một vài tháng. Không nên hy vọng điều trị khỏi hẳn được bệnh này. Các Thu*c an thần hay dùng là haloperidol, risperidone, olanzapin, quetiapine. Hạn chế sử dụng aminazin, levomepromazin do hiệu quả điều trị kém và có nhiều tác dụng phụ. Trong quá trình điều trị, nhất là những tháng đầu dùng Thu*c, người ta thường cho bệnh nhân uống Thu*c an thần kết hợp với trihex để phòng và chữa tác dụng phụ của Thu*c an thần (bồn chồn, cứng lưỡi, cứng hàm, tiết nhiều nước bọt). Các Thu*c an thần này hầu như không độc với gan, thận, tim, hệ Sinh d*c… nhưng tác dụng phụ đáng kể nhất của chúng là gây tăng cân sau thời gian dài điều trị. Vì thế, cần tính toán chế độ ăn và tập luyện thể dục cho hợp lý.

Các trường hợp bệnh nhân có hành vi tự sát, từ chối ăn, căng trương lực, kích động hoặc kháng Thu*c, cần phải làm sốc điện để chữa các triệu chứng trên.

Còn nữa

(Chủ nhiệm Khoa Tâm thần, Bệnh viện 103)

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-roi-loan-tam-than-hay-gap-o-hoc-sinh-sinh-vien-19384.html)

Tin cùng nội dung

  • Theo Đông y, ngải cau có vị cay, tính ấm, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt.Cây ngải cau còn có tên là tiên mao, cồ nốc lan, sâm cau, tại một số địa phương vùng cao bà con gọi là soọng ca, thài léng,… thuộc họ tỏi voi lùn. Là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 20 - 30cm hay hơn.
  • Rối loạn tăng động là bệnh lý thường gặp, chiếm tỉ lệ từ 3 - 6% ở trẻ em. Bệnh khởi phát sớm và thường gặp nhiều hơn ở các bé trai.
  • Bệnh teo đa hệ thống (multiple system atrophy - MSA) là một bệnh thoái hóa thần kinh, tăng tiến dần với các triệu chứng của parkinson, thất điều tiểu não, suy giảm chức năng thực vật, rối loạn chức năng niệu – Sinh d*c, và bệnh lý của bó vỏ gai.
  • Tim thường đập theo nhịp với chu kỳ không đổi. Rối loạn nhịp tim là sự thay đổi ở nhịp tim. Rối loạn nhịp có nghĩa là tim đập nhanh hoặc chậm quá mức. Rối loạn nhịp cũng có thể có nghĩa là tim đập không đúng chu kỳ (không đều) vì mất nhịp hay có thêm nhịp phụ.
  • Thỉnh thoảng chúng ta có thói quen kiểm tra tỉ mỉ mọi việc. Ví dụ, bạn có thể kiểm tra lại để đảm bảo mình đã tắt bếp điện hay bàn ủi trước khi ra khỏi nhà. Nhưng những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD) cảm thấy cần kiểm tra mọi việc lặp đi lặp lại, hoặc có những ý nghĩ hay thực hiện những quy trình và nghi thức lặp đi lặp lại.
  • Lo âu là một phản ứng bình thường để đối phó với căng thẳng và thực sự có thể có ích trong một số hoàn cảnh. Tuy nhiên, đối với một số người, sự lo lắng có thể trở thành quá mức. Mặc dù những người lo âu có thể nhận ra họ đang lo quá mức cần thiết, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát lo âu, và điều đó có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sinh hoạt hàng ngày của họ
  • Rối loạn lưỡng cực, còn được biết đến với tên gọi rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay bệnh lý hưng-trầm cảm, là một rối loạn của não bộ gây ra những biến đổi bất thường về cảm xúc, sinh lực, mức độ hoạt động và khả năng thực hiện những sinh hoạt thường nhật
  • Chế độ ăn BRAT bao gồm chuối, gạo, sốt táo và bánh mì nướng. Chế độ ăn BRAT giúp ích cho trường hợp rối loạn dạ dày, nôn mửa hoặc tiêu chảy. Áp dụng cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
  • Chuyển dạ là quá trình giúp tống thai và nhau ra khỏi tử cung và bắt đầu một cuộc sống mới bên ngoài tử cung của bé. Đôi khi, chuyển dạ không tự khởi phát được, trong trường hợp này các bác sĩ phải sử dụng Thu*c giúp khởi động quá trình chuyển dạ để người mẹ có thể sinh ngả *m đ*o. Quá trình này được gọi là “khởi phát chuyển dạ” hay còn gọi là giục sanh.
  • Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder: ADHD) là một rối loạn mạn tính ảnh hưởng đến hàng triệu trẻ và thường tồn tại đến tận tuổi trưởng thành. ADHD bao gồm một phức hợp các vấn đề chẳng hạn như khó khăn trong việc duy trì sự tập trung, tăng động (hiếu động thái quá) và có hành vi bốc đồng.