Tuỳ theo lứa tuổi, số lượng nước trong cơ thể có khác nhau. ở trẻ sơ sinh nước chiếm xấp xỉ 80% trọng lượng cơ thể. người lớn: 55-60%. ởí nam: 60%, ở nữ: 55%. ở người già, tỉ lệ nước thấp hơn người trẻ.
Khoang ngoài tế bào chiếm 20% trong đó:15% dịch gian bào (GB), 5% dịch trong lòng mạch tức là thể tích tuần hoàn.
Trung bình mỗi ngày lượng nước nhập ở người lớn khoảng 2500ml từ nguồn ăn uống và nước oxy hoá các chất (khoảng 300 ml). cứ 100g mỡ oxy hoá cho 107g nước, 100g đường oxy hoá cho 37g nước, 100g protein oxy hoá cho 45g nước.
Bình thường nước thoát ra ngoài cơ thể qua các đường như da, hô hấp, thận, ruột trung bình khoảng 2500ml mỗi ngày. ngoài ra, còn có thể do mất nước bất thường, xảy ra khi:
Mặc dù có sự thay đổi lớn về lượng nước vào ra nhưng thể tích và thành phần khác nhau của các khoang dịch trong cơ thể luôn được duy trì ổn định nhờ vào cơ chế điều hoà như sau:
Các kênh ion chi phối sự vận chuyển các chất điện giải qua màng tế bào. vai trò của bơm k -na trong cơ chế vận chuyển tích cực qua màng tế bào. các chất điện giải:
Những ion này là thành phần chủ yếu tạo nên áp lực thẩm thấu cũng như có vai trò quan trọng trong điều hoà và vận chuyển nước giữa khoang trong tế bào và khoang ngoài tế bào.
Chất hữu cơ phân tử nhỏ: Urê, amino acide, glucose, những chất này có thể khuếch tán qua lại màng tế bào dễ dàng nên ít có vai trò trong điều hoà và vận chuyển nước.
Áp lực thuỷ tĩnh và áp lực keo. chất hữu cơ có trọng lượng phân tử lớn chủ yếu là protein (albumin) đóng vai trò chính trong sự vận chuyển nước giữa lòng mạch và khoảng kẽ.
Thận và tuần hoàn là trung tâm của việc điều hoà sự vận chuyển nước của khoang mạch máu. tất cả những thay đổi về huyết động (giảm huyết áp động mạch, giãn mạch, giảm thể tích tuần hoàn làm thay đổi cung lượng tim và dẫn đến giảm mức lọc cầu thận. ngược lại suy thận có thể gây nên những thay đổi lớn về thể tích dịch, thể tích tuần hoàn của cơ thể. những thay đổi đó được tác động bởi:
Các catecholamin và hệ giao cảm đóng vai trò chính để kiểm soát sức cản của động mạch đến và động mạch đi ở cầu thận cũng như sức cản mạch máu hệ thống.
Hệ renine-angiotensine-aldosterone, hormon chống bài niệu (adh), yếu tố thải natri niệu của tâm nhĩ (fan) kiểm soát mức lọc cầu thận và trao đổi nước ở ống thận.
Bình thường có 4 đường xuất nước ra khỏi cơ thể: thận, da, ruột, hô hấp. khi lượng nước bị mất qua các đường này tăng do bất thường như: nôn, ỉa chảy, toát mồ hôi nhiều, tăng lợi tiểu hoặc trong một số hoàn cảnh đặc biệt như bệnh nhân thở máy, các bệnh lý gây đa niệu (đái tháo nhạt...) dẫn đến rối loạn thăng bằng nước trong cơ thể.
Ở một người bình thường nếu không nhập nước, nước vẫn được tạo ra qua đường chuyển hoá các chất. lượng nước cung cấp cho cơ thể theo đường này khoảng 300ml/ngày. nếu vẫn không nhập nước thì hậu quả là cơ thể bị thiếu nước. ảnh hưởng đầu tiên đến khoang ngoài tế bào tạo ra hiện tượng cô đặc (ưu trương về phương diện thẩm thấu) và nước trong tế bào vận chuyển ra ngoài tế bào, hậu quả lúc đầu mất nước ngoài tế bào về sau dẫn đến mất nước cả hai khoang.
Theo mariotte: nếu không nhập nước trong 24giờ sẽ giảm 2% trọng lượng cơ thể. trường hợp nặng (không nhập kèm mất bất thường) có thể mất đến 15%. không nhập nước trong 36-48giờ, na và cl- vẫn bình thường nhưng sau 48giờ ống thận tăng tái hấp thu na , cl- do đó 2 loại ion này ở ngoài tế bào tăng. khi mất nước, thể tích nước tiểu giảm, na và cl- trong nước tiểu không tăng, về sau giảm do tăng tái hấp thu. nguyên nhân do áp lực thẩm thấu ngoài tế bào tăng, kích thích thuỳ sau tuyến yên tiết ra adh làm tăng tái hấp thu muối và nước ở ống thận. mặt khác, lượng máu qua thận giảm nên urê lọc qua thận giảm, do vậy urê máu tăng.
Cung cấp nước: uống nước nguyên chất hoặc truyền tĩnh mạch dung dịch nhược trương (glucose 2,5%) không cho nacl lúc đầu. đôi khi cần rất nhiều dịch, nếu thiếu nước nặng cần cho ít nhất một nửa lượng dịch thiếu trong 12giờ đầu.
Thiếu 1,5- 4lít: khát nhiều, khô miệng và vùng nách bẹn. na máu tăng, tỉ trọng và áp lực thẩm thấu nước tiểu tăng. hct , độ căng da, huyết áp bình thường.
Thiếu trên 4 lít: khát không chịu nỗi, tăng Na máu rõ, Hct tăng nhẹ, đái ít, thờ ơ, nếu không điều trị sẽ hôn mê và ch*t.
Mất qua thận: suy thận mãn, tiểu nhiều do thẩm thấu, dùng Thu*c lợi tiểu, suy tuyến thượng thận, bệnh thận gây mất NaCl...
Da nhăn, tụt huyết áp, mạch nhanh, áp lực tĩnh mạch trung ương thấp, đái ít. Không khát, không khô niêm mạc.
Cô đặc máu: hct tăng, protit máu tăng. na và cl- máu và nước tiểu bình thường hoặc giảm nhẹ. tăng urê và creatinin máu.
Cung cấp nước và nacl, không bao giờ bù nước không chứa nacl. dùng bằng đường uống hoặc truyền tĩnh mạch. truyền tĩnh mạch khi có nôn nhiều.
Do sai sót trong điều trị: truyền quá nhiều dịch nhược trương không chứa NaCl, bệnh nhân suy thận, suy gan, suy tim nhập nhiều nước.
Co giật do ngộ độc nước chỉ xuất hiện khi áp lực thẩm thấu huyết tương giảm nặng và na máu nhỏ hơn 120 meq/l.
Rối loạn na máu luôn đi kèm rối loạn nước và áp lực thẩm thấu (altt) của các khoang dịch (trong tế bào lẫn ngoài tế bào). vì vậy cần phải điều chỉnh hợp lý, chặt chẽ để duy trì lượng nước bình thường ở các tổ chức của cơ thể. thay đổi lượng nước và na gây tổn hại các chức năng các cơ quan, nhất là não. thay đổi na máu là hậu quả của sự thay đổi về xuất-nhập cũng như thay đổi sự vận chuyển ion na , k và nước toàn cơ thể.
Khi Na < 125 mEq/l.
Truyền nhiều dung dịch không có Na , bệnh nhân bị ngộ độc nước. Trường hợp này đậm độ Na toàn cơ thể không giảm, chỉ có Na huyết tương giảm.
Cần nhớ rằng nếu điều chỉnh Na máu quá nhanh sẽ gây tiêu hủy myeline cầu não, tổn thương hệ thần kinh nặng không hồi phục.
Tăng na máu do thừa na : mất nước trong tb và ứ nước ngoài tế bào (phù), na máu tăng, áp lực thẩm thấu nước tiểu bình thường hoặc tăng.
Khi giảm [Na ] máu, cần điều chỉnh [Na ] lên mức > 125mmol/l. Đây là mức thường đủ để giảm đi triệu chứng của giảm [Na ] máu. Áp dụng công thức sau:
Ví dụ: Bệnh nhân nam 50kg, mất nước, xét nghiệm [Na ] máu có 118mmol/l. Cần cho bao nhiêu NaCl để làm gia tăng [Na ] máu lên được 130mmol/l ?. Áp dụng công thức trên ta được:
Nếu bù bằng dung dịch NaCl 0,9%, với dung dịch này 1lít chứa154mmol/l Na . Do đó bệnh nhân cần truyền với số lượng dịch truyền là: 360mmol/l /154mmol/l = 2,4. Hoặc tương đương 2400ml dung dịch NaCl 0,9%.
Bình thường ở nam giới nước chiếm 60% trọng lượng cơ thể (tlct) và [na ] máu bình thường là 140mmol/l. nếu dựa theo [na ] máu để tính. áp dụng công thức sau:
Số lượng nước thiếu = tổng lượng nước của cơ thể bình thường trừ đi tổng lượng nước của cơ thể bệnh nhân.
Mà ta biết: tổng lượng nước của cơ thể (tlnct) bình thường x 140 = tổng lượng nước cơ thể bệnh nhân hiện có x [na ] máu bệnh nhân. từ đây ta có thể tính được số lượng nước thiếu cần bù để đưa nồng độ na về giá trị chấp nhận.
Ví dụ: bệnh nhân nam 60kg, có [na ] máu là 160mmol/l. cần bù bao nhiêu thể tích nước để đưa nồng độ na về giá trị chấp nhận được.
để thay thế lượng nước thiếu hụt này, dung dịch cần bù là dung dịch dextrose 5% và bù trong vòng 48 giờ. hoặc truyền 95 ml/giờ.
Insulin làm cho tế bào gan và tế bào cơ tăng bắt K nên gây giảm K máu, (tùy theo liều insulin sử dụng).
Catecholamin làm tăng hoạt tính ATPase và làm K tăng vào trong tế bào. Thu*c ức chế ổ cảm thụ α, β ngăn K không vào trong tế bào được.
Kiềm hô hấp hay chuyển hoá, dùng insulin, corticoid, Thu*c kích thích giao cảm. mất k nhiều qua nước tiểu: Thu*c lợi tiểu, cường aldosteron, toan máu do đái đường, lợi tiểu thẩm thấu. mất k qua tiêu hoá: ỉa chảy, hội chứng kém hấp thu, dò tiêu hoá. mất k qua da: bỏng, mồ hôi nhiều
Phản ánh tăng phân cực màng tế bào gây tăng điện tích âm trong tế bào triệu chứng rõ khi K máu < 2,5 mEq/l.
Tim mạch: Loạn nhịp, trên điện tim có thể thấy: ST chênh xuống, T dẹt, sóng U, nhịp nhanh trên thất, rung thất, xoắn đỉnh. Điện tim là xét nghiệm không thể thiếu và đây là xét nghiệm tin cậy để theo dõi giảm K máu.
Tim: rối loạn dẫn truyền, bất thường về điện tim khi k máu > 6 meq/l. điện tim có: t nhọn và đối xứng, block nhĩ thất, pr dài, qrs giãn rộng, rung thất hoặc ngừng tim thì tâm trương (k máu > 9 meq/l).
Rối loạn điện giải: Tăng K máu có xu hướng gây đái Na và giảm sản xuất NH3 ở thận nên có xu hướng toan chuyển hóa.
Muối Canxi (dạng D-Gluconate) 10-30 ml 10% trong 10phút: Bảo vệ cơ tim chống lại tác dụng của K , tác dụng nhanh nhưng thoáng qua (30-60phút), chống chỉ định tuyệt đối khi dùng digitalis.
Insulin kèm glucose: 500ml glucose 5 % 15 đơn vị insulin, truyền trong 30-45phút, tác dụng thoáng qua 2-4giờ.
Chạy thận nhân tạo hoặc thẩm phân phúc mạc: Chỉ định khi tăng K máu đe doạ tính mạng, toan máu nặng và tăng gánh do thừa dịch trong suy thận.
Đứng trước bệnh nhân có rối loạn nước điện giải cần phải dựa vào lâm sàng là chính và tiếp tục theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu cận lâm sàng. lập một bảng theo dõi bilan nước và điện giải vào và ra của cơ thể, từ đó để có hướng xử trí đúng đắn.
Nói chung, theo dõi sát trên lâm sàng và điều trị bằng cách bù dịch, các chất điện giải qua đường uống hoặc truyền tĩnh mạch các dung dịch điện giải đối với các trường hợp nặng. nếu thực hiện đúng có thể thu được kết quả tốt, giảm được tỉ lệ Tu vong và thời gian nằm viện...
Nguồn: Internet.