Để lại bình luận tại Hướng dẫn của ESC về chẩn đoán và điều trị thuyên tắc phổi cấp tính 2019
I. Điểm mới trong hướng dẫn 2019
1.Khái niệm mới/ sửa đổi
a, Chẩn đoán
Giá trị Cut-off của D-dimer hiệu chỉnh theo tuổi và tình trạng lâm sàng có thể sử dụng thay thế cho giá trị cut-off cố định
b, Đánh giá nguy cơ
Cung cấp định nghĩa rõ ràng về tình trạng rối loạn huyết động và nguy cơ cao PE
c, Điều trị trong pha cấp
Sửa đổi về hỗ trợ huyết động và hô hấp đối với những bệnh nhân PE nguy cơ cao
d, Điều trị mãn tính sau 3 tháng đầu
Các yếu tố nguy cơ tái phát VTE được phân loại thành nguy cơ tái phát cao, trung bình và thấp
e, Thuyên tắc phổi ở những bệnh nhân ung thư
Edoxaban hoặc Rivaroxaban nên được xem xét thay thế cho Heparin trọng lượng phân tử thấp, với lời cảnh báo cho những bệnh nhân ung thư đường tiêu hoá là gia tăng nguy cơ chảy máu với NOACs
f, Thuyên tắc phổi ở bệnh nhân mang thai
Một mô hình chẩn đoán chuyên dụng được đề xuất để chẩn đoán PE ở những bệnh nhân mang thai
g, Quản lý dài hạn
Một mô hình quản lý dài hạn được đề xuất để đảm bảo quá trình chuyển tiếp tối ưu từ bệnh viện sang chăm sóc cộng đồng
2. Thay đổi trong các mức khuyến cáo
Khuyến cáo | 2014 | 2019 |
Tiêu sợi huyết cứu vãn được khuyến cáo cho những bệnh nhân rối loạn huyết động | IIa | I |
Phẫu thuật hút huyết khối hoặc đặt ống thông catheter nên được xem xét thay thế khi tiêu sợi huyết thất bại ở những bệnh nhân có rối loạn huyết động | IIb | IIa |
Giá trị D-dimer và các dự đoán lâm sàng nên được xem xét để loại trừ PE trong thai kì và thời kì hậu sản | IIb | IIa |
Đánh giá chuyên sâu thêm có thể được xem xét ở những bệnh nhân PE không triệu chứng do nguy cơ tăng áp phổi do thuyên tắc huyết khối | III | IIb |
3. Những khuyến cáo chính trong hướng dẫn 2019
Chẩn đoán | |
Xét nghiệm D-dimer hiệu chỉnh theo tuổi hoặc tình trạng lâm sàng, nên được cân nhắc thay thế cho điểm cut-off cố định | IIa |
Nếu trước đó có kết quả siêu âm đè ép tĩnh mạch (CUS) được sử dụng để xác định PE, đánh giá nguy cơ nên được xem xét để hướng dẫn quản lý | IIa |
V/Q SPECT nên được xem xét để chẩn đoán PE | IIb |
Đánh giá nguy cơ | |
Đánh giá chức năng thất phải bằng hình ảnh học hoặc các chỉ số sinh hoá nên được cân nhắc, kể cả ở PESI thấp hoặc sPEI = 0 | IIa |
Các điểm số kết hợp tình trạng lâm sàng, hình ảnh học, sinh hoá có thể được xem xét tiên lượng mức độ nặng PE | IIb |
Điều trị trong pha cấp | |
Khi kháng đông đường uống được chỉ định ở những bệnh nhân PE dung nạp được với NOAC (apixaban, dabigatran, edoxaban, hoặc rivaroxaban) thì NOAC được | I |
Thành lập các nhóm đa chuyên khoa, đa ngành để chăm sóc bệnh nhân nguy cơ cao hoặc lựa chọn những bệnh nhân PE nguy cơ trung bình nên được cân nhắc, dựa vào nguồn lựa và kinh nghiệm sẵn có của mỗi bệnh viện | IIa |
ECMO có thể được xem xét phối hợp với phẫu thuật lấy huyết khối hoặc đặt ống thông, trong trường hợp suy sụp tuần hoàn hoặc ngừng tim | IIb |
Điều trị mạn tính và dự phòng tái phát | |
Điều trị vô thời hạn với anti Vitamin K được khuyến cáo cho những bệnh nhân có hội chứng kháng phospholipidq | I |
Kéo dài thời gian sử dụng kháng đông nên được xem xét ở những bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ chỉ số PE | IIa |
Kéo dài thời gian sử dụng kháng đông nên được xem xét ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ kéo dài cũng như là hội chứng kháng phospholipid | IIa |
Kéo dài thời gian sử dụng kháng đông nên được xem xét ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ thoáng qua/đảo ngược | IIa |
Giảm liều Apixaban hoặc Rivaroxaban nên được cân nhắc sau 6 tháng đầu | IIa |
PE ở bệnh nhân ung thư | |
Edoxaban hoặc Rivaroxaban nên được cân nhắc thay thế cho heparin trọng lượng phân tử thấp ngoại trừ bệnh nhân bị ung thư đường tiêu hoá | IIa |
PE ở bệnh nhân mang thai | |
Thuyên tắc ối nên được xem xét ở những bệnh nhân mang thai hoặc hậu sản, khi rối loạn huyết động không giải thích được, hoặc tình trạng nguy kịch hô hấp và rối loạn đông máu nội mạch lan toả | IIa |
Tiêu sợi huyết hoặc phẫu thuật lấy huyết khối nên được xem xét ở những bệnh nhân mang thai nguy cơ cao PE | IIa |
NOACs không được khuyến cáo trong tha kì và cho con bú | III |
Chăm sóc sau PE và theo dõi dài hạn | |
Theo dõi lâm sàng thường quy được khuyến cáo mỗi 3 – 6 tháng sau đợt cấp PE | I |
Một mô hình chăm sóc được khuyến cáo để đảm bảo chuyển tiếp tối ưu từ bệnh viện về ngoại trú | I |
Khuyến cáo rằng đối với những bệnh nhân không có triệu chứng và có bất tương hợp thông khí tưới máu V/Q > 3 tháng sau PE cấp được xem xét chuyển vào trung tâm tăng áp phổi/ tăng áp phổi do thuyên tắc huyết khối, và các xét nghiệm như siêu âm tim, natri peptide lợi niệu, và hoặc test gắng sức tim phổi nên được thực hiện | I |
Dịch bởi Khoa Điều trị Rối loạn nhịp, trung tâm Tim mạch bệnh viện Chợ Rẫy. Bài đầy đủ của ESC 2019:
TAGS