Chàm vi khuẩn là một trường hợp đặc biệt của bệnh chàm, các triệu chứng của bệnh khởi phát do các độc tố từ tụ cầu, liên cầu khuẩn hoặc từ vi nấm. Bên cạnh các tổn thương da, chàm vi khuẩn còn gây ra một số biểu hiện toàn thân như ớn lạnh, sốt, mệt mỏi, đau nhức. Bệnh chàm vi khuẩn có mức độ nghiêm trọng hơn loại chàm khác. Do đó, người bệnh cần trạng bị những kiến thức về bệnh lý để điều trị và phòng ngừa bệnh tốt nhất.
Bệnh chàm vi khuẩn có mức độ nghiêm trọng hơn loại chàm khác
Nguyên nhân chủ yếu gây bùng phát các triệu chứng của bệnh chàm vi khuẩn là do sự xâm nhập của nấm Epidermophyton, Trichophyton hoặc do độc tố của tụ cầu khuẩn/ liên cầu khuẩn. Bệnh thường xuất hiện các vết xước da, lỗ rò, vết mổ, vết côn trùng cắn hoặc vết bỏng.
Các triệu chứng chàm vi khuẩn khởi phát do cơ thể phản ứng với các độc tố từ vi khuẩn, vi nấm, dẫn đến kích thích phản ứng hệ thống miễn dịch và bùng phát bệnh chàm vi khuẩn. Tình trạng này có sự khác biệt với biến chứng chàm bội nhiễm (là một dạng tổn thương da do bệnh chàm bị nhiễm trùng do vi khuẩn và virus).
Các triệu chứng lâm sàng của bệnh chàm vi khuẩn thường tập trung ở những khu vực da thường hay tiếp xúc, nhất là những vùng da mỏng, dễ trầy xước. Khác với các trường hợp chàm thông thường, chàm vi khuẩn không chỉ phát sinh các triệu chứng tại chỗ mà còn phát sinh một số triệu chứng toàn thân.
Thông thường, tổn thương da do chàm vi khuẩn gây ra thường xuất hiện ở 1 hoặc 2 bên cẳng chân. Ngoài ra, biểu hiện bệnh lý còn có thể khu trú ở lỗ dò, xung quanh tai, vết mổ,…
Người mắc bệnh chàm vi khuẩn thường có các triệu chứng điển hình như:
Tổn thương chàm vi khuẩn có vảy tiết giống với bệnh chàm bội nhiễm
Theo các chuyên gia, nấm men, virus và vi khuẩn là các nguyên nhân chính gây bùng phát các triệu chứng bệnh chàm vi khuẩn.
Virus Herpes: Đây là loại virus có khả năng lây nhiễm cao. Vì vậy khi tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ các mụn nước của người bệnh hoặc sử dụng chung các vật dụng cá nhân, lúc này virus sẽ tấn công vào các vết trầy xước và gây bùng phát các triệu chứng bệnh chàm vi khuẩn.
Tụ cầu khuẩn ( Staphylococcus aureus): Tụ cầu khuẩn được xem là nguyên nhân chính khởi phát bệnh chàm vi khuẩn. Chủng vi khuẩn này thường tồn tại trên da nhưng không gây ngứa ngáy hay bất kỳ triệu chứng bất thường nào.
Tuy nhiên, khi da bị tổn thương và xuất hiện các vết thương hở, lúc này vi khuẩn có thể xâm nhập tiết độc tố và gây nhiễm trùng. Chất độc do tụ cầu khuẩn tiết ra sẽ kích thích hệ miễn dịch và phát sinh tổn thương thể chàm.
Tụ cầu khuẩn được xem là nguyên nhân chính khởi phát bệnh chàm vi khuẩn
Các vi nấm: Nấm Epidermophyton và nấm Trichophyton là 2 chủng thường gây ra bệnh chàm vi khuẩn. Những loại nấm này thường gây ra bệnh nấm da, đây là một dạng tổn thương ở lớp thượng bì. Tuy nhiên, ở các trường hợp bị bệnh chàm, độc tố của nấm se kích thích phản ứng hệ miễn dịch, dẫn đến giải phóng histamin dưới da và gây ra các tổn thương trên da.
Phần lớn các thể bệnh chàm là bệnh ngoài da mãn tính, có liên quan mật thiết đến cơ chế tự miễn dưới các tác động của các yếu tố kích thích. Thường bệnh chàm không có nguy cơ lây nhiễm khi tiếp xúc nhưng có khả năng di truyền.
Tuy nhiên, đối với bệnh chàm vi khuẩn, nguyên nhân chính gây bệnh là do vi khuẩn, virus và men nấm. Do đó, bệnh có khả năng lây nhiễm khi tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của vùng da bị tổn thương hoặc đường gián tiếp.
Những tác nhân này sẽ tấn công vào vết thương hở, các vết trầy xước và gây ra tình trạng nhiễm trùng. Do đó, khi bị chàm vi khuẩn, người bệnh nên hạn chế để vùng da tổn thương tiếp xúc với những khu vực da khỏe mạnh hoặc da của người xung quanh để tránh nguy cơ lây nhiễm.
Khác với các thể chàm thông thường, chàm vi khuẩn không chỉ gây tổn thương da, khiến người bệnh ngứa ngáy, khó chịu mà còn tác động xấu đến sức khỏe của người bệnh. Các triệu chứng của bệnh lý nếu không được thăm khám và điều trị kịp thời có thể gây ra các biến chứng như:
Dựa vào nguyên nhân khởi phát bệnh mà bác sĩ sẽ áp dụng các biện pháp điều trị cụ thể, phù hợp với tình trạng bệnh. Vì vậy, khi có các triệu chứng của bệnh, bạn nên chủ động tìm gặp bác sĩ chuyên khoa để được tiến hành chẩn đoán lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán phân biệt để tìm ra nguyên nhân chính xác gây bệnh.
Dựa vào nguyên nhân khởi phát bệnh mà bác sĩ sẽ áp dụng các biện pháp điều trị cụ thể, phù hợp với tình trạng bệnh
Thông thường, để kiểm soát các triệu chứng bệnh chàm vi khuẩn cũng như ngăn ngừa tình trạng lây lan, bác sĩ sẽ chỉ định một số loại thuốc điều trị như sau:
Thuốc kháng virus, kháng nấm: Trường hợp bệnh do bị nhiễm virus hoặc nấm, bác sĩ có thể sử dụng một số loại thuốc kháng nấm và kháng virus dạng bôi tại chỗ hoặc dạng uống để ức chế sự phát triển và lây lan của tác nhân gây bệnh.
Các loại thuốc kháng sinh: Thuốc kháng sinh thường được chỉ định trong các trường hợp chàm nhiễm khuẩn bùng phát do liên cầu khuẩn hoặc tụ cầu khuẩn. Thuốc thường được dùng liên tục từ 7 – 14 ngày tùy vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Việc lạm dụng các loại thuốc các loại thuốc kháng sinh có thể gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn. Do đó, người bệnh chỉ dùng thuốc khi có chỉ định từ bác sĩ chuyên khoa.
Dung dịch sát trùng: Khi da mới phát sinh tổn thương, bạn có thể dùng các loại dung dịch sát trùng như hồ nước, dung dịch Jarish, thuốc tím,…để ức chế nấm, vi khuẩn và virus. Thuốc ở dạng dung dịch thường được dùng trong giai đoạn bệnh mới phát giúp tổn thương da được sạch sẽ, khô thoáng, hạn chế tình trạng rỉ dịch và lan rộng.
Thuốc giảm đau: Acetaminophen là thuốc giảm đau thường được chỉ định với các trường hợp bệnh chàm vi khuẩn bị nhiễm trùng nặng gây đau nhức, sốt, ớn lạnh. Loại thuốc giảm đau này tương đối an toàn, tuy nhiên người bị các vấn đề về gan hoặc thiếu hụt men G6PD không được chỉ định dùng thuốc.
Thuốc kháng histamin H1: Đối với các trường hợp chàm vi khuẩn gây ngứa ngáy dữ dội, bác sĩ có thể chỉ định người bệnh dùng thuốc kháng histamin thế hệ I. Bên cạnh đó, thuốc còn được sử dụng khi bệnh chàm vi khuẩn gây ra triệu chứng thứ phát như phát ban dị ứng.
Các loại thuốc bôi chứa corticoid: Khi các tổn thương trên da đã khô lại và tình trạng nhiễm trùng đã được kiểm soát, bác sĩ có thể kết hợp cho người bệnh sử dụng các loại thuốc bôi chứa corticoid. Thuốc có tác dụng giảm ngứa ngáy, chống viêm nhiễm và ức chế hệ thống miễn dịch tại khu vực da dùng thuốc.
Thuốc bôi corticoid tác dụng giảm ngứa ngáy, chống viêm nhiễm và ức chế hệ thống miễn dịch tại khu vực da dùng thuốc
Tuy nhiên, nếu lạm dụng thuốc bôi chứa corticoid sẽ gây ra một số tác dụng phụ như teo da, mỏng da, dày sừng, giãn mao mạch, viêm da,…
Khi tình trạng nhiễm trùng đã được kiểm soát, bác sĩ điều trị sẽ xem xét tình trạng bệnh của từng trường hợp để áp dụng thêm một số thuốc chữa trị như thuốc ức chế calcineurin, thuốc bạc sừng chứa axit salicylic,…
Bên cạnh sử dụng thuốc theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, bạn có thể kết hợp thêm một số biện pháp chăm sóc da tại nhà để kiểm soát tình trạng bệnh chàm vi khuẩn tốt hơn, đồng thời hỗ trợ rút ngắn thời gian điều trị.
Dưới đây là một số biện pháp chăm da tại nhà được áp dụng phổ biến:
Các thể bệnh chàm và bệnh chàm vi khuẩn đều có các triệu chứng kéo dài dai dẳng và thường xuyên tái phát. Do đó sau khi kết thúc điều trị, người bệnh nên chủ động thực hiện phòng ngừa bệnh tái phát với một số biện pháp sau đây:
Không dùng chung các vật dụng với người đang mắc bệnh chàm vi khuẩn, đặc biệt là khăn tắm, quần áo
Bệnh chàm vi khuẩn thường có mức độ nghiêm trọng hơn các trường hợp bệnh chàm thông thường. Một số trường hợp các tác nhân gây bệnh tấn công vào sâu trong da, tuần hoàn máu gây ra các biến chứng nguy hiểm. Do đó, khi có các dấu hiệu của bệnh lý bạn nên chủ động đến bệnh viện để được bác sĩ tiến hành chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Có thể bạn quan tâm:
- Chàm bội nhiễm là gì? Mức độ nguy hiểm và cách điều trị
- TOP 10 thuốc trị bệnh chàm tốt nhất được đánh giá tốt
Chủ đề liên quan: