Bệnh động mạch vành là căn nguyên gây Tu vong số mộttrong các bệnh lý tim mạch hiện nay. Tại Việt Nam, bệnhđộng mạch vành ngày càng gia tăng và trẻ hóa, gâyảnh hưởng nặng đến sức khỏe người bệnh.
Nếu như tai biến mạch máu não thường được biết đến như làbệnh của người cao tuổi thì bệnh động mạch vành, trong đó nguy hiểm nhất là nhồi máu cơ tim, đauthắt ngực lại có thể xảy ra ngay cả ở những người còn rất trẻ và khỏe mạnh. Sự thay đổi chế độ dinhdưỡng, áp lực cuộc sống đang làm bệnh lý này gia tăng.
Quả tim là một khối cơ rỗng có vai trò giống như một máy bơm. Tim bơm máu đi cung cấp cho toànbộ cơ thể. Quả tim bao gồm hai phần có chức năng khác nhau: Tim phải nhận máu tĩnh mạch (máu đen)đến từ các bộ phận của cơ thể và bơm chúng lên phổi. Tại đây máu tĩnh mạch được làm giàu ôxy và trởthành "máu đỏ".
Tim trái nhận máu từ các tĩnh mạch phổi (máu đỏ) và bơm chúng lên động mạch chủ đểđưa đến các cơ quan qua hệ động mạch ngoại biên. Mỗi phần có buồng nhận máu, được gọi là tâm nhĩ vàbuồng bơm máu, được gọi là tâm thất.
Các tâm thất có thành cơ dày (cơ tim) co bóp đều đặn (tần sốkhoảng 60 - 70 lần/phút khi nghỉ ngơi) để bơm máu đến các bộ phận khác nhau của cơ thể, làm chodòng máu chảy trong các động mạch theo nhịp đập của tim.
Hút Thu*c lá gây nguy cơ cao mắc bệnh động mạch vành.Các tâm nhĩ được ngăn cách với các tâm thất bởi các van tim (van ba lá ở bên phải và van hai láở bên trái). Các van tim này chỉ cho dòng máu chảy theo một chiều: khi tâm thất bóp để tống máu vàotrong động mạch thì các van này đóng lại để ngăn cản dòng máu phụt ngược lên tâm nhĩ.
Có các vantim tại các cửa ra của các tâm thất (van động mạch phổi tại cửa ra của tâm thất phải và van độngmạch chủ tại cửa ra của tâm thất trái), các van này ngăn cản dòng máu chảy ngược về tâm thất trongthời kỳ tâm trương.
Để cơ tim hoạt động được, cũng như các cơ quan khác trong cơ thể, cơ tim cầnđược cung cấp đủ máu giàu ôxy. Máu được cung cấp cho cơ tim qua hệ thống động mạch vành. Các nhánhđộng mạch vành xuất phát từ gốc động mạch chủ.
Hệ động mạch vành gồm có động mạch vành trái và độngmạch vành phải. Các động mạch này chia ra các nhánh nhỏ hơn tới nuôi từng vùng cơ tim.
Để hoạt động được bình thường, cơ tim cần được cung cấp năng lượng và ôxy bởi các động mạchvành. Bệnh động mạch vành xuất hiện khi một hoặc nhiều nhánh động mạch này bị tắc nghẽn một phầnhay hoàn toàn (thường là do các mảng xơ vữa).
Thông thường cơn đau thắt ngực có thể xảy ra khi độngmạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch. Khi hoạt động thể lực, cơ thể cần nhiều ôxy hơnnên cơ tim phải làm việc nhiều hơn như: tăng co bóp, tăng tần số tim, huyết áp tăng... do đó nhucầu ôxy của cơ tim cũng tăng lên.
Nếu một nhánh động mạch vành bị hẹp, sự cung cấp máu cho vùng cơtim tương ứng trở nên không đầy đủ. Cơ tim bị thiếu máu và thiếu ôxy gây cơn đau thắt ngực. Cơn đauthắt ngực này thường xảy ra khi bệnh nhân gắng sức và giảm đi khi bệnh nhân được nghỉ ngơi, nênngười ta gọi là cơn đau thắt ngực ổn định.
Nếu các mảng xơ vữa trong động mạch vành bị nứt, vỡ rathì cơn đau thắt ngực có thể xuất hiện cả khi nghỉ ngơi nên người ta gọi là cơn đau thắt ngực khôngổn định.
Điều trị nội khoa: Điều trị bằng Thu*c, có thể dùng một hoặc nhiều loại Thu*c kết hợp với nhau.Phương pháp này làm giảm được triệu chứng nhưng không giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng độngmạch vành.
Điều trị ngoại khoa: Phẫu thuật làm cầu nối chủ - vành. Vùng cơ tim bị thiếu máu sẽ được cungcấp máu bởi một mạch máu khác vòng qua chỗ động mạch vành bị hẹp hoặc tắc.
Tim mạch can thiệp: Can thiệp động mạch vành qua da là phương pháp không phải phẫu thuật nhưngvừa làm giảm triệu chứng, vừa giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng động mạch vành.
Cho dù người bệnh đã được điều trị bằng phương pháp ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việcsử dụng liên tục các Thu*c là hết sức cần thiết để duy trì kết quả của các thủ thuật này.
Bên cạnhđó, cần phải thay đổi lối sống như: không hút Thu*c lá; luyện tập thể dục thường xuyên, đặc biệt làtập đi bộ; tránh căng thẳng quá mức; ăn nhạt, không ăn mỡ và các phủ tạng động vật, hạn chế ăntrứng, sữa, đồ ngọt; không uống quá nhiều rượu, bia.
Và điều trị một số bệnh có liên quan đến bệnhđộng mạch vành: điều trị bệnh đái tháo đường; ăn chế độ giảm cân, chống béo phì; điều trị rối loạnlipid máu; điều trị bệnh tăng huyết áp.
Hiện nay có khoảng 24% bệnh nhân động mạch vành điều trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt Nam,BV Bạch Mai. Những thay đổi trong đời sống kinh tế, xã hội đã ảnh hưởng nhiều tới tập quánsinh hoạt của người Việt Nam và đó có thể là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng bệnh động mạchvành ở nước ta.
Bệnh động mạch vành không nhất thiết phải xảy ra một cách từ từ. Nếu mảng xơ vữa bị vỡ ra có thểgây tắc mạch đột ngột hay tạo thành cục huyết khối gây tắc mạch. Lúc này động mạch bị tắc hoàn toànvà gây ra nhồi máu cơ tim.
Trong cả hai trường hợp, các tế bào cơ tim bị thiếu ôxy đột ngột, cạnkiệt nguồn dự trữ năng lượng và ch*t giống như các cây bị khô kiệt nước. Hậu quả của nhồi máu cơtim phụ thuộc vào độ rộng của vùng nhồi máu. Vùng cơ tim bị ch*t càng rộng thì chức năng tim cànggiảm nặng. Đây là một trong các nguyên nhân thường gặp nhất của suy tim.
Chủ đề liên quan:
bệnh động mạch bệnh động mạch vành động mạch động mạch vành mạch vành mangyte.vn nguồn dự trữ năng lượng nguy hiểm tim mạch