Bệnh giun chỉ loa loa là một bệnh mạn tính do giun chỉ loa loa gây nên. Bệnh xuất hiện ở người và khỉ ở những vùng rừng đầm lầy nhiều mưa Tây Phi, từ Nigeria đến Angola, và cả vùng lưu vực sống Congo ở Trung Phi, về phía Đông tới Tây Nam Sudan và Tây Uganda. Ước tính có 3 - 13 triệu người bị nhiễm bệnh.
Giun trưởng thành sống trong tổ chức dưới da tới 12 năm. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng, các ấu trùng này đi vào máu, sau đó được các côn trùng trung gian là ruồi cái hút máu ban ngày, loài chrysops cái hút máu. Khi ruồi hút máu lần tiếp theo, ấu trùng giun có thể gây nhiễm cho vật chủ mới hoặc gây bội nhiễm. Thời gian cho giun trưởng thành và ấu trùng mới xuất hiện là 6 tháng tới vài năm.
Nhiều bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng. Ở những người có triệu chứng, giun (giun cái 4 - 7 cm x 0,5 mm) xuất hiện từng thời điểm ở dưới da hoặc kết mạc, qua dấu hiệu phù một bên chi, hoặc phủ Calabar. Phủ Calabar là phản ứng phủ dưới da đường kính 3 - 10 cm, ấn không lõm, không đỏ ngoài da, đôi khi đi kèm với sốt nhẹ, đau tại chỗ, và ngứa. Tổn thương phù có thể dịch chuyển vài centimet trong 2 - 3 ngày hoặc dừng ở một chỗ trước khi thuyên giảm. Sau những khoảng thời gian không nhất định, chúng lại tái xuất hiện ở chỗ cũ hoặc một nơi khác, nhưng mỗi lần chỉ ở một chỗ. Khi ở gần các khớp, hoạt động của khớp có thể tạm thời bị hạn chế. Giun di trú qua mắt có thể không gây triệu chứng, hoặc có thể gây đau, viêm kết mạc nặng và phù mi mắt. Giun trưởng thành đang ch*t dần có thể tạo thành các nốt nhỏ hoặc áp xe vô khuẩn tại chỗ, giun ch*t có thể bị vôi hóa, và phát hiện được trên phim X quang.
Ấu trùng trong máu không gây các triệu chứng. Tuy nhiên, đôi khi chúng xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương và có thể gây viêm não, viêm tủy, hoặc co giật kiểu Jackson; các ấu trùng còn có thể gây các tổn thương và biến chứng trong võng mạc, tim, phổi, và các tổ chức khác.
Những người bản địa nói chung có thể bệnh nhẹ hoặc không có triệu chứng nhưng có ấu trùng trong máu và xét nghiệm huyết thanh dương tính. Tuy nhiên, ở những người đến từ ngoài vùng dịch tễ, bệnh thường biểu hiện bằng các triệu chứng rối loạn miễn dịch nặng (phù Calabar nặng và thường gặp, tăng số lượng bạch cầu và bạch cấu ái toan, tăng gamma globulin trong máu, tăng IgE hỗn hợp) và thường xét nghiệm huyết thanh dương tính nhưng không phát hiện được ấu trùng trong máu.
Chẩn đoán đặc hiệu dựa trên việc tìm thấy ấu trùng đặc trưng trong các bệnh phẩm máu lây vào ban ngày (10 giờ sáng đến 4 giờ chiều) bằng các phương pháp cô đặc để tăng độ nhạy; các phương pháp này là (1) lam giọt đặc, (2) cô đặc Knott, và (3) lọc Nuclepore. Chẩn đoán định hướng để điều trị dựa trên phù Calabar hoặc giun di trú qua mắt, tiền sử cư ngụ ở vùng dịch tễ, và số lượng bạch cầu ái toan tăng cao (40% hoặc hơn). Các xét nghiệm huyết thanh học có thể dương tính, nhưng phản ứng chéo xảy ra với các bệnh nhiễm giun chỉ khác, và đôi khi với nhiễm giun tròn.
Các chi tiết về sử dụng thích hợp diethylcarbamazin (Thu*c lựa chọn diệt cả ấu trùng và giun trưởng thành) xin xem trong các tài liệu tham khảo, do các tác dụng phụ xuất hiện khi ấu trùng ch*t có thể nặng, đôi khi có viêm não có khả năng gây Tu vong. Liều dùng là 50 mg một lần (ngày thứ 1), 50 mg ba lần/ngày (ngày thứ 3), và 3 mg/kg ba lần/ngày (ngày thứ 4 - 21). Một liệu trình điều trị chữa khỏi khoảng 50% số bệnh nhân; ba liệu trình là 90%. Các phản ứng thường xảy ra với số lượng ấu trùng trước điều trị lớn hơn 25/µl. Lọc tế bào (cytapheresis) đã được sử dụng để làm giảm số lượng giun trước khi bắt đầu dùng diethylcarbamazin. Prednison đôi khi được chỉ định để làm giảm các phản ứng. Phẫu thuật lây giun trưởng thành từ mắt hoặc da không có chỉ định. Khi ivermectin được sử dụng để điều trị cho 1,1 triệu người bị nhiễm giun chi onchocerca có nhiễm giun chỉ Loa loa tiềm tàng, 28 trường hợp phản ứng thần kinh đã xuất hiện (một vài trường hợp nghiêm trọng) do ấu trùng của Loa loa ch*t. Các phản ứng này có nguy cơ cao khi lượng ấu trùng của giun chỉ loa loa trên 8/µl và nguy cơ rất cao khi lượng ấu trùng trên 50/µl.
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu. Điều trị dự phòng diethylcarbamazin, 300 mg mỗi tuần, có thể có ích, nếu nguy cơ phơi nhiễm cao. Tuy nhiên biện pháp này không có chỉ định cho những người du lịch thoảng qua và những người có thể mắc một bệnh giun chỉ bất kỳ nào trước đó.
Phần lớn các trường hợp bệnh có diễn biến lành tính, nhưng một số có các triệu chứng nặng và hạn chế vận động tạm thời. Tiên lượng rất tốt khi điều trị.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh giun bệnh giun chỉ bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chẩn đoán chống dịch dịch covid điều trị dự kiến giun chỉ khỏi bệnh mắc mới nâng cấp sở y tế