Bệnh mắt hột xuất hiện từ thời trước Công nguyên và đã từng có lúc tồn tại ở hầu hết các vùng trên thế giới:
Hiện nay bệnh mắt hột là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng lớn ở ít nhất 46 nước đang phát triển (tỷ lệ từ 10-40% ở châu Phi và 3-15% ở một số vùng châu A).
Theo tổ chức y tế thế giới hiện nay có khoảng 500 triệu người bị bệnh mắt hột, còn khoảng 146 triệu người đang mắc mắt hột hoạt tính và khoảng 6 triệu người mù loà do bệnh mắt hột (1995).
Những nước có bệnh mắt hột hoạt tính còn chiếm tỷ lệ cao ( từ trên 20-50%) và còn nhiều biến chứng: một số nước Bắc Phi, Trung Quốc, Đông Nam A.
Từ đầu thế kỷ 20 bệnh mắt hột lưu hành một cách trầm trọng ở khắp nước Việt nam, với nhiều biến chứng chủ yếu là toét mắt và lông quặm. Tỷ lệ bệnh mắt hột năm 1947-1951 là 85,6%. Sau năm 1954 tỷ lệ mắt hột là 81% (30% có biến chứng, 0,22% mù hai mắt). Năm 1986 tỷ lệ mắt hột hoạt tính là 20% (tỷ lệ mù hai mắt 0,17% trong dân số).
Trong những năm vừa qua ngành Nhãn khoa Việt Nam đã có nhiều thành tích trong công tác phòng chống bệnh mắt hột: làm giảm tỷ lệ mắt hột và biến chứng của bệnh. Mặc dù không còn là ưu tiên hàng đầu trong công tác phòng chống mù loà nhưng bệnh mắt hột vẫn là một vấn đề quan trọng. Bệnh mắt hột còn mang tính chất xã hội và còn là nguyên nhân gây mù loà.
Theo kết quả điều tra dịch tễ học mù loà tại 8 tỉnh năm 2000-2002, sẹo giác mạc do mắt hôt là nguyên nhân thứ tư gây mù ở Việt nam(chiếm 2,7% tổng số các nguyên nhân gây mù hai mắt). Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước, hiện nay tình hình mắt hột hoạt tính ở Việt nam đã giảm đi nhiều (Nam định 1,2%, Ninh bình dưới 7%). Mắt hột còn tồn tại những ổ rải rác ở một số nơi với qui mô cấp xã hoặc thôn bản tại các vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ (Mường Ló Yên Bái 14%, Vĩnh Phúc 14%). ở nhiều nơi khác còn tồn đọng nhiều quặm do mắt hột cũ ở người trên 50 tuổi. Do vậy ngành Mắt và Bộ Y tế đã đặt ra mục tiêu là thanh toán bệnh mắt hột gây mù ở Việt nam vào năm 2010.
Bệnh mắt hột được biết đến từ rất xa xưa, từ Trachoma do gốc từ Hy Lạp nghĩa là xù xì và sưng phồng ở kết mạc sụn mi trên.
Tác nhân gây bệnh là Chlamydia Trachomatis, nhưng có nhiều tác nhân vi sinh vật khác tham gia gây bệnh. Trong giai đoạn lây bệnh, viêm nhiễm, bệnh thể hiện đặc trưng bằng sự có mặt của các hạt đặc biệt (hột), kèm thêm thâm nhiễm toả lan mạnh, phì đại nhú ở kết mạc và sự phát triển các mạch máu trên giác mạc.
Thâm nhiễm: Hiện tượng thâm nhập của các tế bào viêm, chủ yếu là các tế bào limphô vào tổ chức bạch nang của kết mạc.Thâm nhiễm làm cho kết mạc dày đỏ, che mờ các mạch máu.
Hột: hột thường xuất hiện ở kết mạc sụn mi trên, có thể gặp ở kết mạc mi dưới và ở cùng đồ, kích thước không đều, từ 0,5 - 1mm.
Hột tiến triển qua các giai đoạn : hột non - hột phát triển - hột chín dễ vỡ tạo thành sẹo (Hình 1). Không có hột mắt hột ở trẻ sơ sinh trong 3 tháng đầu.
Sẹo: Sẹo trên kết mạc là các đoạn xơ trắng nhỏ, dải sẹo, hình sao mạng lưới. Sẹo gây co kéo cạn cùng đồ - mi cụp vào.
Nhú: Khối đa giác có ranh giới rõ, giữa khối nhú có một chùm mao mạch. Nhú xuất hiện trong thời kỳ viêm kéo dài hoặc có sự kích thích liên tục ở kết mạc. Nhú không phải là yếu tố đặc hiệu của bệnh mắt hột.
Thâm nhiễm: Sự thâm nhập của các tế bào viêm vào lớp nông, cực trên của giác mạc. Giai đoạn sau thâm nhiễm làm giác mạc có màu xám.
Hột: Thường ở vùng rìa cực trên, từ 2 - 5 hột. Hột trên giác mạc thoái triển, làm sẹo tạo thành lõm hột (lõm Herbert).
Hột trên giác mạc là có giá trị chẩn đoán gần tuyệt đối, chỉ xuất hiện ở những hình thái phồn thịnh của bệnh mắt hột ở giai đoạn toàn phát:
Tân mạch: Từ hệ mạch máu vùng rìa xâm nhập vào các giác mạc thường xuất hiện ở cực trên, một số trường hợp xâm nhập toàn bộ chu vi giác mạc.
Màng máu: Là tổn thương đặc hiệu của bệnh mắt hột trên giác mạc, màng máu thường khu trú ở lớp nông, ở phần trên của giác mạc (Hình 2). Màng máu được tạo bởi thâm nhiễm giác mạc, hột (hoặc di chứng hột : lõm hột) và tân mạch.
Màng máu có biểu hiện lâm sàng rất phong phú, có nhiều hình thái. Màng máu bao giờ cũng để lại di chứng. Màng máu có thể gây giảm thị lực.
Có hai bảng phân loại: bảng phân loại đầy đủ cho tuyến tỉnh (tham khảo ở sách nhãn khoa) và bảng phân loại đơn giản cho tuyến xã.
TF (Trachomatous inflammation Follicular): Viêm mắt hột có hột. Có ít nhất 5 hột ở vùng trung tâm, kích thước hột lớn hơn 0,5mm.
TI (Trachomatous inflammation - Intense): Viêm mắt hột mạnh. Kết mạc dầy đỏ, quá nửa mạch máu kết mạc bị che mờ bởi thâm nhiễm tế bào viêm (bao trùm TF).
TS (Trachomatous Scarring): Sẹo kết mạc do mắt hột. Sẹo trên kết mạc là những đoạn xơ trắng, dải sẹo, hình sao, mạng lưới.
TT (Trachomatous Trichiasis): Lông xiêu. Có từ 1 lông xiêu trở lên cọ vào nhãn cầu, hoặc bệnh nhân mới nhổ lông xiêu.
Bảng phân loại bệnh mắt hột của WHO không chia bệnh mắt hột thành các thời kỳ mà chia bệnh mắt hột thành 2 loại:
Mắt hột tự khỏi: Gặp ở mắt hột nhẹ, đốt cháy giai đoạn. Mắt hột Tr Ia, giữ vệ sinh phòng bệnh, chống viêm phối hợp.
Mắt hột bội nhiễm: Bệnh nặng, thâm nhiễm sâu, nhiều biến chứng. Có thể tiến triển theo qui luật, hoặc có dao động lâm sàng.
Viêm kết mạc phối hợp, viêm bờ mi: Cương tụ kết mạc, tiết tố (dử, ghèn), bờ mi dày đỏ, nứt kẽ mắt (mắt toét).
Hột trên kết mạc sụn mi trên: chỉ tính hột ở vùng trung tâm, không tính hột ở hai goác và bờ trên sụn. Cần phân biệt hột với sạn vôi, nang nhỏ và chắp.
Sẹo điển hình trên kết mạc sụn mi trên. Cần phân biệt với sẹo do bỏng hoặc sẹo trong viêm kết mạc có giả mạc.
Cần có 2 trong 4 tiêu chuẩn để chẩn đoán xác định bệnh mắt hột. Ở những vùng mắt hột nặng có tỉ lệ cao, chỉ cần 1 trong 4 tiêu chuẩn.
Viêm kết mạc mùa xuân: Là một viêm kết mạc dị ứng. Tổn thương là các nhú to, dẹt, hình đa diện (như đá lát) ở kết mạc sụn mi trên.
Ở các cơ sở y tế tuyến xã, người ta sử dụng bảng phân loại bệnh mắt hột theo 5 dấu hiệu của Tổ chức Y tế Thế giới để chẩn đoán và phân loại bệnh mắt hột.
Năm 1907 hai tác giả là Von Prowareck và Halberstaedler đã tìm thấy trong các tế bào biểu mô của người bị bệnh mắt hột có những tập hợp của nhiêu chấm nhỏ gọi là thể PH. Khi nhuộm Giemsa thấy các thể PH nằm sát với nhân, trong nguyên sinh chất của tế bào. Thể PH là tập hợp của nhiều nguyên vi thể ( CI: từ 0,5 đến 1 micron) ở trung tâm của thể PH có những chấm nhỏ hơn ( CE từ 0,23 đến 0,5 micron).
Thể PH ( CPH) thường gặp ở những giai đoạn đầu của bệnh mắt hột. Theo Stepanova (1927) CPH( ) ở thời kỳ TrI: 76,21%, TrII: 65%. TrIII: 19%.
Từ năm 1907 đến 1930 khi Prowareck và Halberstaedler phát hiện các thể vùi trong tế bào biêu mô của người bị mắt hột, người ta đã giả thieets tác nhân mắt hột là một virus cỡ lớn.
Từ năm 1953 đến 1960 các tác giả coi tác nhân mắt hột nằm trong ranh giới giữa virus và vi khuẩn. Tác nhân mắt hột bắt đầu được đặt tên là Chlamydia. Chlamydia mắt hột có những đặc tính giống vi khuẩn và virus.
Ký sinh bắt buộc vào tế bào (dưới dạng thể vùi CPH), phải dựa vào sự chuyển hóa của tế bào phát triển.
Hiện nay Chlamydia trachomatis là tác nhân đậc trưng gây bệnh mắt hột và các bệnh viêm đường tiét niệu, Sinh d*c ở người, thuộc họ Chlamydiaceae. Vi khuẩn mắt hột thuộc nhóm vi khuẩn Gram âm.
Bệnh nhân bị bệnh mắt hột là do tái nhiễm Chlamydia nhiều lần. Bệnh mắt hột lây lan dễ dàng đậc biệt là ở trẻ em.
Trong các cộng đông bị mắt hột nặng nhất hầu hết trẻ em đều mắc bệnh ở 1-2 tuổi ( có trẻ 6 tháng đã mắc bệnh). Vì trẻ em chiếm phần lớn trong dân số ở những vùng bị bệnh mắt hột lưu địa nặng nên trẻ em có bệnh mắt hột hoạt tính chính là những ổ lây truyền chủ yếu trong cộng đồng.
Bệnh mắt hột có thể gây mù hoặc không gây mù hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tác động qua lại của ba yếu tố chính là vật chủ (con người), các yếu tố môi trường và tính gây bệnh của tác nhân Chlamydia trachomatis. Tại những nơi có các điều kiện vệ sinh môi trường tốt, bệnh mắt hột nhẹ, ít lây lan. Bệnh có thể tự khỏi không gây mù loà.
Tại những nơi điều kiện vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân kém thì bệnh mắt hột lại tiến triển và lây lan mạnh, biến chứng nặng gây mù loà. Những vùng đó gọi là những ổ mắt hột lưu địa và bệnh mắt hột ở đó chính là bệnh mắt hột gây mù.
Ruồi: Ruồi mang tác nhân gây bệnh có trong dử mắt người bệnh đậu vào mắt người lành và truyền bệnh (lây truyền ở cộng đồng).
Khăn mặt, đồ vải bẩn: Khăn mặt có dính dử mắt người bệnh nếu dùng chung sẽ đưa vi khuẩn gây bệnh vào mắt người lành (lây truyền ở gia điình).
Ngón tay bẩn: Người bệnh dụi tay lên mắt, dử mắt có vi khuẩn gây bệnh sẽ bám vào và vô tình đưa sang mắt kia hoặc chùi tay lên mắt người khác sẽ làm mắt kia cũng nhiễm bệnh mắt hột (tự lây truyền).
Người trong cùng gia đình: Quá trình lây truyền bệnh mắt hột chủ yếu xảy ra trong gia đình, đặc biệt ở trẻ em dưới 10 tuổi và phụ nữ là những người thường xuyên tiếp xúc với nguồn bệnh.
Bẩn: Môi trường có nhiều phân súc vật, phân người, rác thải sẽ tạo đièu kiện để ruồi phát triển nhiều hơn.
Chất tiết: Dử mắt, nước mũi và có thể cả chất tiết đường Sinh d*c chứa nhiều tác nhân gây bệnh và dễ truyền bệnh cho người khác.
Đông người sống trong gia đình: Càng đông người sống trong một căn nhà chật hẹp, khả năng tiếp xúc khả năng tiếp xúc và lây nhiễm bệnh giữa người bệnh và người lành càng cao.
Điều trị ngắt quãng: tra mắt 1 lần vào buổi tối trước ngủ liên tục 10 ngày trong 1 tháng x 6 tháng liền. Hoặc tra 2 lần/ngày x5 ngày trong 1 tháng x 6 tháng.
Thu*c tra mắt mỡ Tetracyclin 1% có ưu điểm là dễ mua, rẻ tiền, có thể tra cho trẻ dưới 1 tuổi và phụ nữ có thai, nhưng nhược điểm là tra mắt kéo dài nên người bệnh khó thực hiện đúng.
Zithromax (Azythromycin) dùng cho bệnh mắt hột hoạt tính. Azythromycin là một kháng sinh tương tự như erythromycin nhưng tốt hơn do khả năng thâm nhập mạnh vào các mô tế bào, đậm độ Thu*c tập trung cao và kéo dài với 1 liều dùng duy nhất đúng 1 lần / năm.
Các chương trình điều trị bệnh mắt hột chủ yếu dựa trên việc duy trì kháng sinh tra mắt hàng loạt. Bắt đầu điều trị tích cực và rộng rãi bằng Thu*c có khả năng làm giảm nguồn lây lan Chlamydia ở mắt trong nhân dân. Sau đó tiếp tục tra Thu*c ngắt quãng trong từng gia đình để khống chế thêm sự lan truyền Chlamydia từ mắt sang mắt.
Mổ quặm: đây là phương pháp điều trị cần thiết, khẩn cấp để đề phòng mù lòa do bệnh mắt hột. Nếu có dưói 5 lông xiêu mức độ chọc vào mắt chưa nhiều, chưa có điều kiện đi mổ ngay thì phải nhổ lông xiêu thường xuyên và tra Thu*c mỡ tetracyclin 1% hàng ngày rồi đi mổ sau. Nếu có từ 5 lông xiêu trở lên cần phải đi mổ quặm ngay.
Bệnh mắt hột lưu địa (mắt hột gây mù): bệnh tổn hại triền miên, kéo dài trong nhân dân ở một địa phương. Chlamidia Trachomatis lây truyền bệnh và gây tiếp nhiễm cho người có bệnh. Chu trình khó kết thúc. Gây biến chứng mù.
Bệnh mắt hột đơn thuần: xuất hiện lẻ tẻ đơn phát. Tiến triển bình thường đến hết chu kỳ bệnh lý, làm sẹo nhẹ, không gây biến chứng và có khả năng khỏi tự nhiên.
Cần đánh giá tỷ lệ phổ biến, mức độ nặng nhẹ của bệnh mắt hột qua điều tra toàn bộ quần thể nhân dân, phối hợp với các cán bộ y tế địa phương.
Tỷ lệ trẻ em 1 - 10 tuổi bị mắt hột | Điều trị căn bản | Điều trị bổ sung |
TF ³ 20% và TI ³ 5% | Điều trị cả tập thể | Điều trị kháng sinh toàn thân đối với những ca nặng |
TF 5% ® 20% | Điều trị : Tập thể hoặc cá nhân, gia đình. | Điều trị như trên |
TF < 5% | Điều trị cá nhân | Không cần |
Điều trị tập thể: Tất cả mọi người, mọi gia đình ở cộng đồng đều được tra mỡ Tetracyclin 1% liên tục 2 lần / ngày x 6 tuần hoặc gián đoạn 2 lần / ngày x 5 ngày / 1 tháng / 6 tháng
Điều trị gia đình: khi trong gia đình có người bị TF hay TI. Dùng mỡ Tetracyclin 1% liên tục hoặc gián đoạn như điều trị tập thể.
Cải thiện vệ sinh môi trường nhằm hạn chế lây bệnh và tái nhiễm trong gia đình và cộng đồng, gồm có các việc sau:
Tạo nguồn cung cấp nước sạch: Đào khoan giếng, làm bể lọc nước sông...nhằm hạn chế sự lây lan của bệnh qua dử mắt, tay bẩn, khăn đồ vải bẩn.
Trong gia đình có người bị bệnh mắt hột cần phaỉ điều trị, nếu có quặm phải đi mổ quặm, nhổ lông xiêu để tránh biến chứng gây mù.
Nguồn: Internet.