Sóng siêu âm tần số cao (2.5-10 MHz) tạo ra bởi hiệu ứng điện áp bên trong các đầu dò siêu âm. Các đầu dò này vừa tạo ra và tiếp nhận sóng âm được di chuyển trên bề mặt của da và sóng âm phản chiếu hình ảnh của các cấu trúc cơ quan bên trong cơ thể. Các cấu trúc với chỉ vài mặt phân cách, như các cấu trúc đầy dịch cho phép sóng âm lan truyền qua và tạo ra hình ảnh tối hơn. Cấu trúc với nhiều mặt phân cách gây trở âm lớn và khúc xạ sóng âm tạo ra hình ảnh trắng hơn. Không khí gây yếu dần các sóng âm, nên các cấu trúc nằm sâu bên trong không thể thấy được.
Phương pháp có nhiều ưu điểm: an toàn, phát xạ không gây ion hóa, có thể lặp lại, không đau và cần chuẩn bị bệnh nhân ít hơn.. Cũng có thể khảo sát tại giường bệnh và đánh giá một loạt các cơ quan chỉ trong một thời gian tương đối ngắn.
Nội soi dạ dày, ống nội soi mềm được luồn qua miệng sau tiêm diazepam để nhìn trực tiếp thực quản, dạ dày và tá tràng.
Nôi soi trực tràng. Bệnh nhân nằm nghiêng, một ống ngắn đã được bôi trơn bằng gel đưa qua hậu môn. Để khảo sát:
Nôi soi đai tràng sỉgma: Bệnh nhân nằm nghiêng trái, ống nội soi cứng hoặc mềm. Trực tràng được bơm khí. Để khảo sát:
Chảy máu, ỉa chảy hoặc táo bón: viêm loét, bệnh ống tiêu hóa nhiễm khuẩn khác hoặc carcinoma.
Nôi soi đai tràng: Có thể khảo sát toàn bộ đại tràng hoặc đoạn cuối hồi tràng sau khi làm sạch đại tràng. Để khảo sát:
Ho máu hoặc nghi ngờ tắc nghẽn phế quản: carcinoma phế quản, và để làm sạch phế quản tắc nghẽn.
Nôi soi ổ bung: Có thể quan sát các cơ quan bên trong qua đường rạch nhỏ sau khi gây mê, chọc hút để làm tế bào hoặc vi khuẩn, hoặc sinh thiết. Phẫu thuật nội soi qua thành bụng bao gồm triệt sản, lấy trứng để thụ tinh trong ống nghiệm và cắt túi mật nội soi.
Chọc hút tế bào: Là kỹ thuật lấy tế bào để chẩn đoán khối u hoặc chẩn đoán vi sinh. Dưới sự hướng dẫn của siêu âm, CT, hay IMR. Để xem xét rất nhiều khối u chưa xác định được, ví dụ u vú hoặc tụy, để chẩn đoán carcinoma.
Mật độ khí màu đen, mật độ kim loại (hầu hết là canxin và bari) màu trắng với ranh giới rõ. Nước và mỡ tối xẫm. Khó để xem một cấu trúc 3D ở phim 2D. Một nguyên tắc hữu ích trong việc xác định vị trí tổn thương là chú ý mốc liền kề bình thường bị xóa mờ nếu có. Ví dụ: một tổn thương mật độ nước xóa mờ bờ phải của tim phải nằm ở thùy giữa phổi phải và không ở thùy thấp hơn.
Chụp sau trước hoặc chụp trước sau chỉ thực hiện khi bệnh nhân nằm trên giường. Tên chính xác cho chụp ngực thường dùng là “chụp ngực sau-trước”. Điều đó có nghĩa là vị trí của tim nằm gần phim khi có thể và hình ảnh của tim mở rộng tối thiểu.
Theo một tiến trình logic từ trung tâm ra ngoại vi của phim- bóng của ranh giới chỉ nhìn thấy khi “sự cản năng lượng” tia X của mô liền kề khác nhau. Vì vậy bờ của tim không thấy khi xẹp hoặc đồng nhất với mô phổi bên cạnh.
Kích thước: Chỉ số tim ngực bình thường dưới 50%. Đường kính tim ở nam < 15.5 cm, ở nữ < 15 cm.
Hình dạng: Buồng tim to ra? Chụp trước sau (thất trái và nhĩ phải). Chụp nghiêng (thất phải và nhĩ trái).
To trong tăng áp phổi với các mạch máu nhỏ ở lớp áo thứ 3 - shunts, giảm O2 máu, tắc mạch, bệnh phổi mạn.
Bóng phế nang - mờ hay hợp lại dày đặc: Phim phế quản khí: nước, mủ, máu, u quanh phế quản, thường thấy ở phế quản tận, hình vòng tròn gần rốn phổi.
Xơ hóa, thành ổ: Di căn?, ví dụ vú, tiền liệt tuyến, dạ dày, thận, tuyến giáp, lympho - xơ hóa tủy, bệnh Paget.
Hủy xương (chỉ phát hiện trong giai đoạn tiến triển). Không thể phân biệt được loãng xương và nhuyễn xương trên phim XQ, trừ vùng Looser (gãy xương giả) trong bệnh nhuyễn xương.
Hiệu quả kém phim ngực bởi vì đậm độ phản quang ít hơn. Khí trong ruột rất hữu ích như đường cơ đái chậu. Cố tìm đường nét các tạng khi có thể.
< 5 AFLs ngắn là bình thường.
Thường dài < 18 cm, mặt dưới lót bởi mỡ.
Vị trí ở trung tâm. Là các vòng khuyết nhỏ, van ngang lòng ruột, không có phân. Giãn > 3.5 cm ở đầu gần, > 2.5 cm ở đầu xa gợi ý tắc nghẽn.
Ruột già: Xếp dọc khung đại tràng. Các vòng khuyết to hơn. Giãn > 5.5 cm gợi ý tắc nghẽn. > 9 cm có nguy cơ thủng đại tràng.
Đường cơ đái chậu: Định hình bởi mỡ sau phúc mạc. 20% trường hợp bình thường không thấy. Mất một bên gợi ý u hay tụ máu sau phúc mạc
Phần cơ thể được chiếu tia X ở nhiều góc khác nhau trong khi máy quay 3600. Một máy tính sẽ tóm tắt dữ liệu từ các hình ảnh đó và tạo ra một hình ảnh tổng hợp. Sự giảm chùm tia X phụ thuộc vào mô: nước tùy chọn bằng 0, đen -1000, trắng 1000 UH. Các “cửa sổ” khác nhau được chọn để hiển thị các cấu trúc đặc trưng khác nhau, ví dụ: cửa sổ mô mềm, cửa sổ phổi, cửa sổ xương. CT có thể sử dụng để:
Lấy mẫu máu tĩnh mạc đồng thời có thể xác định vị trí một khối u nội tiết, ví dụ: parahormone của u tuyến cận giáp, catecholamines của u tế bào ưa crom, hay chẩn đoán hẹp động mạch thận sử dụng phân tích renin tĩnh mạch thận
Thu*c cản quang được tiêm nhanh theo đường tĩnh mạch ngoại vi (chụp mạch xóa nền TM) hoặc động mạch (chụp mạch xóa nền ĐM). Phim được chụp khi Thu*c qua động mạch liên quan. Trong cách chụp này một máy tính sẽ xóa bỏ nền để nhìn rõ động mạch.
Những nghiên cứu y học hạt nhân tận dụng những đồng vị phóng xạ với dược học thích hợp hay các kháng thể đơn dòng được thiết kế để tìm ra sự khác nhau giữa các cơ quan hay bệnh lý. Các nghiên cứu này mang lại hiệu quả đánh giá chức năng hơn là hình thái. Phương pháp khá nhạy nhưng không đặc hiệu.
Bất kỳ nguyên nhân nào gây tăng chu chuyển xương (bone turnover) hay dòng máu tới xương, ví dụ: u, nhiễm khuẩn, chấn thương, nhồi máu. Sử dụng nhiều nhất để phát hiện di căn.
Chẩn đoán nhồi máu phổi sử dụng nhấp nháy đồ tưới máu, khi nhồi máu gây sai sót mà không tương xứng với mật độ nước ở cùng một vị trí trên phim ngực chụp cùng lúc. Thường được chỉ định khi có bệnh đường thở tắc nghẽn mạn tính.
Để đánh giá chức năng thất, ví dụ: phân số tống máu, và để chẩn đoán tính toàn vẹn cơ tim. Thiếu máu hay sẹo gây ra vùng “lạnh” trên phim nhấp nháy đồ cơ tim. Nghiệm pháp thường được thực hiện khi nghỉ ngơi và sau khi gắng sức.
Để phát hiện bất thường dòng máu thận, nhu mô thận chức năng và bài tiết. Chụp nhấp nháy đồ thận (xạ hình thận) phát hiện sẹo và đánh giá chức năng thận. Đo độ thanh thải Chromium-5l EDTA xác định chính xác mức lọc cầu thận. Cũng có các phương pháp phát hiện xoắn tinh hoàn.
Để phát hiện những bất thường liên quan tới những rối loạn tâm thần kinh. Đáng chú ý là sa sút trí tuệ, tâm thần phân liệt và động kinh.
Để đánh giá kích thước, hình dạng và vị trí tuyến giáp và phát hiện các nhân nóng hay lạnh do ung thư biểu mô tuyến, các nang, xuất huyết hay bất kỳ liên quan khác. Đồng thời có thể đánh giá sự hấp thu i ốt của tuyến giáp.
Sơ đồ tủy xương và mạch bạch huyết. Đặc biệt xem gan, lách khi không có siêu âm. Hơn nữa sử dụng bạch cầu đánh dấu phóng xạ để tìm ổ viêm, nhiễm, đáng chú ý là ở xương, nghi ngờ viêm ống tiêu hóa, và sau phẫu thuật ổ bụng.
Cũng có những chất đánh dấu phát hiện các khối u, đáng chú ý là: u lymp phô, carcinoma đại tràng, carcinoma buồng trứng, u hắc tố. Hồng cầu đánh dấu phóng xạ có thể phát hiện các vị trí chảy máu dạ dày- ruột.
Còn được gọi là cộng hưởng từ hạt nhân (NMR). Tạo ra các hình ảnh cắt ngang (MRI) hay thông tin quang phổ về các chất hóa học trong các mô (quang phổ cộng hưởn từ, MRS).
Một xe điện nhỏ đưa bệnh nhân vào một nam châm siêu dẫn, nam châm này tạo ra một từ trường mạnh ở phía ngoài bệnh nhân.
Hệ trục của ion hydro thường nằm ở vị trí bất kỳ nhưng có thể nằm ở một góc đặc biệt do từ trường mạnh (vị trí a). Khi bị đưa vào từ trường sóng radio thứ 2 góc này bị thay đổi (tới vị trí b). Khi sóng radio trên ngừng, vị trí a được giữ bởi từ trường trên và một sóng radio được phát ra và được phát hiện.
Hyđro là thành phần lớn nhất trong cơ thể. MRI có thể phát hiện sự khác nhau về nồng độ ion hydro giữa các mô trong cơ thể, đáng chú ý là mỡ (-CH2-) và nước (HOH).
Để tìm u não, các vùng mất myelin của chất trắng trong bệnh đa xơ hóa, các tổn thương tủy sống, thoát vị đĩa đệm.
MRI cho thấy chi tiết các hình ảnh giải phẫu cắt ngang tương tự CT mà nó còn cung cấp các hình ảnh từ mặt phẳng đứng dọc và đứng ngang so với mặt phẳng chục chuẩn của CT.
Bệnh nhân mang máy tạo nhịp không nên chụp MRI. bệnh nhân cấy mô kim loại không có khả năng chụp MRI và hội chẩn với chuyên gia. MRI có vai trò lớn trong y khoa các chỉ định ngày càng rộng rãi.
Chụp positron cắt lớp (PET) là kỹ thuật hình ảnh sử dụng đường FDG. FDG hấp thu tương quan với chuyển hóa glucose. Các khối u ác tính chuyển hóa glucose mạnh hơn nên tạo ra hình ảnh khối u khi sử dụng kỹ thuật này. PET cần đánh giá hơn nữa nhưng hầu như hữu ích với các khối u.
Bệnh nhân được nối với 12 chuyển đạo của máy điện tim, với các thiết bị hồi sức sẵn có, bệnh nhân chạy bộ gắng sức hay đi xe đạp. Bruce protocol: cứ mỗi 3 phút lại tăng tốc độ và độ dốc của máy chạy bộ. Ghi ECG mỗi một phút, huyết áp mỗi 3 phút.
Thiếu máu cơ tim gây đoạn ST chênh xuống. Tỷ lệ dương tính sai khi không có đau ngực (c.20%), phụ thuộc vào tuổi và giới, tỷ lệ này cao nhất với thiếu nữ, ngay cả khi có triệu chứng đặc hiệu của đau ngực.
Chỉ định chụp mạch chỉ khi khả năng gắng sức thấp đạt được trước khi xảy ra những bất thường quan trọng.
Để xem cấu trúc và chức năng của tim. Sử dụng sóng âm (2.5-7.5 MHz) để phản ánh bề mặt ngăn cách của tim, ví dụ vách nhĩ và thất, tim, van tim, mạch máu lớn. Tần số cao hơn thì phân biệt tốt hơn nhưng sự đâm xuyên mô kém hơn. Sự chậm trễ giữa thời gian truyền và thu nhận tín hiệu đánh giá độ sâu.
Chức năng thất, vd: co bóp yếu, phân số tống máu thấp, đoạn mất vận động, vận động nghịch thường trong phình mạch.
Sử dụng một chùm tia siêu âm, và nhìn thấy trên màn ảnh sự chuyển động của tim, để đo đường kính thất trong thời kỳ tâm thu/ trương.
Máu bệnh nhân (thường là hồng cầu) được đánh dấu bởi T 99m (t1/2= 6h). Một camera và một máy tính sẽ tạo ra hình ảnh chuyển động của tim bằng “cổng” máy tính với ECG bệnh nhân.
Các hình ảnh được lấy khi gắng sức cũng như khi nghỉ ngơi, để đánh giá ảnh hưởng của stress lên chức năng tâm thu.
Gia tốc máu qua vị trí tắc nghẽn, ví dụ: hẹp van tim. Vận tốc đỉnh (peak velocity) tỷ lệ với gradient huyết động.
Phát hiện nhanh bất thường dòng máu do hở van tim, hay shunt trong tim, ví dụ: thông liên thất.
Máy SÂ tính toán trực tiếp và vận tốc dòng, điểm ảnh bởi điểm ảnh (pixel by pixel), trong một đoạn ảnh và mã hóa màu.
Một phương pháp đánh giá xâm nhập chức năng tim và bệnh tim mà một ống nhỏ được luồn vào, với an thần nhẹ và ở phòng phẫu thuật:
Phương pháp thông thường nhất là luồn ống thông qua mạch máu đùi phải theo kỹ thuật Seldinger. Một kim sắc qua da chọc thủng mạch máu. Kim này được lấy ra và một catheter được luồn qua dây dẫn mà được rút ra sau đó. Ép để cầm máu. Chống chỉ định trên bệnh nhân đang dùng Thu*c chống đông, bệnh mạch máu ngoại vi nặng, hay phình động mạch chủ bụng.
Cách khác: Chọc qua da vào mạch cánh tay ở khuỷu tay. Khâu lỗ mở động mạch cho phép sử dụng trên bệnh nhân dùng chống đông.
Huyết động của tim và gradient qua các van riêng biệt, ví dụ bằng cách kéo catheter trở lại ngang van động mạch chủ, khi đó ghi lại được áp lực thì tâm thu.
Hẹp van hai lá được xác định bởi áp lực tâm trương khác nhau giữa thất trái (catheter tim phải) và nhĩ trái đo được gián tiếp nhờ catheter tim phải ở vị trí “wedge” - qua động mạch phổi làm tắc mao mạch phổi vì vậy áp lực đỉnh phản ánh áp lực nhĩ trái lan truyền qua mao mạch phổi.
Tiêm iod vào buồng tim để đánh giá chức năng tâm thu và phát hiện hở van, ví dụ tiêm vào thất trái để phát hiện hở van hai lá.
ECG được mang trong 24 giờ (hoặc 48h); ECG được lưu lại liên tục trong suốt các hoạt động bình thường. Để chẩn đoán:
Huyết áp được đo ngắt quãng cho phép đánh giá trong suốt những hoạt động hàng ngày mà không bị ảnh hưởng của xúc động do “áo choàng trắng”. Tăng huyết áp được định nghĩa là huyết áp trung bình trong ngày >140/>90 mmHg. Khi huyết áp không thấp hơn không xuất hiện trong đêm gợi ý tăng huyết áp thứ phát.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ các phương pháp chẩn đoán chống dịch dịch covid dự kiến hình ảnh khỏi bệnh lâm sàng mắc mới nâng cấp phương pháp sở y tế