Đau bụng là một trong những dấu hiệu chức năng hay gặp nhất trong các bệnh về tiêu hoá, nhiều khi chỉ dựa vào triệu chứng đau, người thầy Thu*c có thể sơ bộ chẩn đoán hay hướng về một bệnh nào đó. Tuy nhiên đau là một cảm giác chủ quan, phụ thuộc nhiều vào cá tính của từng người à không phản ánh hoàn toàn tình trạng của bệnh, không thể chỉ dựa vào tình trạng đau nhiều hay ít để đánh giá mức độ bệnh nặng hay nhẹ. Do đó triệu chứng đau chỉ có tính chất gợi ý đầu tiên khiến cho thầy Thu*c dựa vào đó tiến hành hỏi bệnh và thăm khám chẩn đoán bệnh.
Vị trí đầu tiên của đau. Nhiều khi có giá trị quan trọng trong chẩn đoán. Thường vị trí của đau tương ứng với các cơ quan bên dưới, thí dụ:
Hoàn cảnh xuất hiện đau: Đau do thủng dạ dày thường đột ngột - đau quặn gan, quặn thận xuất hiện sau khi vận động nhiều…
Hướng lan: Có thể lan ra sau lưng, lên ngực, lên vai, xuống dưới. Đau dạ dày thường lan ra sau lưng và lên ngực, đau quặn gan lan lên ngực và lên vai, đau do niệu quản lan xuống bộ phận Sinh d*c và đùi…
Đau thực sự: Tùy theo từng bệnh, tuỳ theo cảm giác của từng người bệnh, có thể đau như dao đâm (thủng dạ dày), đau xoắn vặn, đau nhoi nhói, đau âm ỉ…
Đau quặn: Là cảm giác đặc biệt khi đau từng cơn, ở một vị trí nhất định, trội lên rồi dịu dần cho đến cơn sau. Ở ruột, cơn đau dịu đi sau khi trung tiện hoặc đại tiện và đau là do một đoạn ruột bị trướng hơi đột ngột; hội chứng Koenig, bán tắc ruột. Ở ống tiết như ống mật, túi mật, niệu quản, cơn đau quặn là do sự co bóp quá mạnh gây nên tăng áp lực đột ngột và tạo thành cơn đau quặn gan và quặn thận.
Cảm giác rát bỏng: Thường là cảm giác nóng bỏng, cồn cào ở dạ dày, cảm giác này gây nên do tình trạng quá cảm của niêm mạc dạ dày.
Hội chứng đau đám rối thái dương: Đau dữ dội ở thượng vị, đột ngột rối loạn tiêu hoá, ảnh hưởng đến tình trạng toàn thân.
Các biểu hiện liên quan đến bộ phận có bệnh: Nôn mửa, rối loạn đại tiện, vàng da, vàng mắt, đái máu, đái đục, kinh nguyệt…
Hỏi về tiền sử: Nghề nghiệp, thí dụ cơn đau bụng chì do ngộ độc chì. Các bệnh mắc từ trước, giang mai, kiết lỵ…đặc biệt chú ý tới tính chất tái phát nhiều lần của những cơn đau giống nhau, đau vùng thượng vị có chu kỳ thường do loét dạ dày hành tá tràng. Đau vùng hạ sườn phải kèm theo sốt và vàng da tái phát nhiều lần, gặp trong sỏi mật…
Khám toàn thân (xem thêm bài khám toàn thân): Theo dõi mạch, huyết áp, nhiệt độ, nhịp thở…khám các bộ phận có hệ thống.
Tình trạng sốc: Gặp trong một số bệnh có tính chất cấp cứu như thủng dạ dày, viêm tuỵ cấp chảy máu, chửa ngoài dạ con bị vỡ.
Khám bụng (xem thêm bài khám bộ máy tiêu hoá): Kết hợp nhìn, sờ, gõ nghe, và thăm trực tràng, *m đ*o.
Đặc biệt chú ý đến một số điểm đau như: Điểm ruột thừa (điểm Mac Burney điểm túi mật (làm nghiệm pháp Murphy). Điểm sườn lưng, điểm niệu quản…
Thành bụng không di động theo nhịp thở, cứng như gỗ, các cơ thành bụng nổi rõ, gõ vùng trước gan trong - thủng nội tạng rỗng (dạ dày, ruột ….).
Thăm trực tràng và *m đ*o: Là động tác rất cần thiết và quan trọng có thể phát hiện một số tình trạng cấp cứu như - chửa ngoài dạ con bị vỡ có túi cùng Douglas phồng, rất đau (tiếng kêu Douglas), viêm màng bụng - các túi cùng rất đau.
Về điện quang có thể cho biết một số tình trạng cấp cứu như hình lưỡi liềm hơi trong thủng dạ dày, thủng ruột, hình mức nước và hơi trong tắc ruột…
Sau khi kết hợp cả ba mặt hỏi bệnh, thăm khám và xét nghiệm, ta có thể và phải phân biệt ba loại tình trạng đau bụng khác nhau để có thể có thái độ quyết định xử trí khác nhau.
Gồm những bệnh tiến triển rất nhanh chóng dẫn đến Tu vong, cần phải chẩn đoán sớm và xử trí bằng phương pháp phẫu thuật kịp thời và nhanh chóng. Thì dụ: Thủng dạ dày, viêm ruột, tắc ruột thừa…
Đó là những cơn đau bụng đột ngột hoặc cơn đau trội lên của một tình trạng đau bụng kéo dài, thường biểu hiện những bệnh cần xử trí kịp thời bằng phương pháp nội khoa, không dùng đến phẫu thuật. Ví dụ: giun chui ống mật, viêm ruột cấp, cơn đau của loét dạ dày hành tá tràng…
Nhiệm vụ của những người thầy Thu*c đứng trước một người bệnh đau bụng là pảhi phân biệt được ba tình trạng đau bụng trên để có thái độ xử trí kịp thời nhất là phải phát hiện tất cả những trường hợp đau bụng có tính chất cấp cứu ngoại khoa. Nhưng thực tế nhiều khi rất khó: thí dụ bệnh loét dạ dày diễn biến kéo dài nhưng có những đợt đau cấp và ổ loét bị thủng sẽ gây nên những tình trạng cấp cứu ngoại khoa, vì vậy người thầy Thu*c phải thăm khám kỹ lưỡng, theo dõi cẩn thận để phân biệt và phát hiện kịp thời.
Sau khi phân biệt các tình trạng đau bụng khác nhau, muốn quyết định thái độ xử trí cần tìm nguyên nhân đã gây nên đau bụng, vì đau chỉ là một triệu chứng mà bất kỳ tổn thương của một nội tạng nào trong ổ bụng cũng có thể gây nên, trước khi đi vào phần nguyên nhân ta cần biết hiện tượng đau được tạo thành do những cơ chế nào?.
Những kích thích này tác động lên các sợi dây thần kinh giao cảm ở nội tạng và gây nên đau: Áp xe gan, viêm tuỵ tạng..
Dưới đây chỉ giới thiệu một số nguyên nhân chính gây nên đau bụng với những dấu hiệu chủ yếu để có một khái niệm rất chung, rất đại cương về một số bệnh thông thường vì đau bụng là một triệu chứng rất chung biểu hiện rất nhiều bệnh mà trong phạm vi bài này không có mục đích đi sâu vào từng bệnh.
Để thuận lợi trong việc thăm khám và chẩn đoán, ta sẽ phân chia theo vị trí của vùng đau, tuỳ theo vị trí xuất phát của đau bụng sẽ có những gợi ý chẩn đoán khác nhau.
Thủng dạ dày: Đau ở đây đột ngột có đặc điểm - Đau dữ dội vùng thượng vị như ao đâm. Tình trạng toàn thân: Sốc, mạch nhanh, hốt hoảng lo lắng, kèm theo rối loạn tiêu hoá - nôn, bí đại tiện và trung tiện. Khám thành bụng có phản ứng cứng như gỗ, không di động theo nhịp thở. Gõ thấy mất vùng đục trước gan vì co hơi. Soi xquang thấy hình liềm hơi trên gan và trên dạ dày. Thường có tiền sử đau dạ dày từ trước, nhưng cũng có khi không.
Trong tiền sử thường có những cơn đau theo chu kỳ, xuất hiện vào những giờ nhất định, liên quan đến bữa ăn trong ngày và vào những mùa nhất định trong năm.
Do túi mật hoặc cơ tròn Lutchkens co bóp không đều, gây nên những cơn đau quặn gan điển hình tự hạ sườn phải lan lên vao phải (đau kiều dây đeo quần) nhưng:
Khi áp xe tiến triển vỡ vào ổ bụng, sẽ gây tình trạng viêm màng bụng cấp - bụng cứng và phản ứng mạnh, bất động không theo nhịp thở, tình trạng nhiễm khuẩn nặng.
Khám, ấn vào điểm túi mật rất đau và làm nghiệm pháp Murphy thấy dương tính: người bệnh hít vào sâu, trong khi đó ta đè ngón tay sâu dần vào điểm túi mật đến một lúc nào đó, vì đau, người bệnh sẽ lại dừng đột ngột không dám hít vào nữa: trong viêm túi mật, nghiệm pháp này dương tính.
Viêm túi mật có thể vỡ vào ổ bụng gây nên tình trạng viêm màng bụng giống như apxe gan, hoặc mật có thể thấm qua vách túi mật, gây nên tình trạng nhiễm mật màng bụng và cũng có dấu hiệu viêm màng bụng.
Đau đột ngột, dữ dội và lăn lộn, ở vùng thượng vị và hạ sườn phải (người bệnh thường phải nằm chổng mông hoặc dựng hai chân lên tường cho bớt đau).
Bệnh thường đươc theo dõi và điều trị nội khoa nhưng nếu có biến chứng (tắc mật, ápxe, thủng…) thì trở thành cấp cứu ngoại khoa, cần phẫu thuật.
Đặc biệt là có tình trạng chảy máu trong: Thiếu máu nhanh chóng, mạch nhỏ và nhanh, huyết áp hạ, người bệnh bị ngất mỗi lần ngồi lên hoặc thay đổi tư thế, hồng cầu giảm nhanh.
Thăm *m đ*o, thấy túi cùng sau phồng (túi cùng Douglas) và rất đau (tiếng kêu Douglas), đồng thời khi rút tay ra thấy có máu theo tay.
Thường đau ở hố chậu phải và trái (vùng hồi manh tràng và đại tràmg sichma). Có hội chứng kiết lỵ (đại tiện ra máu, mũi).
Khám bụng có phản ứng co cúng, gõ mất vùng đục trước gan, x quang thấy hình liềm hơi. Từ ngày có cloroxit biến chứng này ít gặp.
Ngoài ra còn một số đau bụng ngoại khoa khác như lồng ruột xoắn ruột, nhồi máu mạc treo, viêm túi thừa Mecken viêm màng bụng cấp do lao, do vi khuẩn… nói chung các bệnh này thường ít gặp hơn trong phạm vi bài này không thể hết được.
Các loại ký sinh vật tiêu hoá đều có thể gây đau bụng kèm theo rối loạn tiêu hoá, hay gặp nhất là đau bụng do giun đũa có đặc điểm là:
Những người tiếp xúc với chì lâu ngày, bị nhiễm độc, có thể xuất hiện những cơn đau bụng kèm theo những dấu hiệu nhiễm độc khác (thiếu máu, viêm nhiều dây thần kinh…). Đau bụng ở đây có đặc điểm là:
Các rối loạn khác: Táo bón kéo dài, quanh chân răng thấy nền xanh, tỷ lệ chì trong máu trong nước tiểu tăng cao.
Đau bụng dữ dội và đột ngột, có khi đau rất nhiều, gây phản ứng thành bụng, chướng bụng khiến có thể nhầm với một tình trạng cấp cứu ngoại khoa.
Bao giờ cũng đau, sưng các khớp, chảy máu dưới da thành nhiều kiểu các nốt máu ở dưới chi dưới, nhất là quanh các khớp cổ chân và đầu gối.
Một số bệnh nhiễm khuẩn có thể gây đau bụng như cảm, sốt rét, thương hàn. Thường phối hợp với triệu chứng toàn thân và các rối loạn tiêu hoá khác.
Gồm những bệnh có cơn đau diễn biến kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Ta sẽ không nhắc lại những bệnh có cơn đau kéo dài nhưng có những đợt đau cấp đã tả ở trên như đau do lóet dạ dày, hành tá tràng, sỏi mật, nhiễm độc chì, giun.
Hoặc đau bụng âm ỉ, rối loạn tiêu hoá, khám bụng thấy màng bụng dính từng đám gõ chỗ đục chỗ trong (thể bã đậu).
Ung thư dạ dày, ruột, gan, tuỵ tạng… đều có thể gây đau bụng, có khi là những khối u ở nơi khác di căn đến vùng bụng cũng gây đau. Phát hiện bằng khám lâm sàng và chụp x quang.
Một số nguyên nhân khác như viêm trực tràng, viêm hồi tràng, viêm đại tràng đoạn cùng gây nên tình trạng đau bụng kéo dài giống như viêm đại tràng mạn tính và muốn xác định cần phải thăm khám kỹ kết hợp với những yếu tố Xquang và xét nghiệm khác.
Đau bụng là một triệu chứng chung, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên, do đó đứng trước một người bệnh đau bụng, cần phải thăm khám kỹ lưỡng để phát hiện nhanh chóng những trường hợp ngoại khoa, kịp thời xử trí phẫu thuật, tránh những hậu quả nguy hiểm cho người bệnh. Trong những trường hợp nghi ngờ cần phải theo dõi cẩn thận và liên tục, làm thêm các xét nghiệm cận lâm sàng và tranh thù ý kiến của những người làm công tác ngoại khoa
chuyên môn.
Ngoài ra đối với những bệnh gây nên những cơn đau bụng cấp nội khoa, cũng cần phải chẩn đoán kịp thời để có thái độ xử trí, tránh tình trạng đau đớn kéo dài cho người bệnh.
Chủ đề liên quan:
biểu hiện đau bụng đau bụng cấp đau bụng cấp tính và mãn tính dấu hiệu lâm sàng triệu chứng tiêu hóa