Trước đây người ta cho rằng suy dinh dưỡng có thể gây thoái hóa mỡ ở gan (gan nhiễm mỡ) hơn là ethanol ở người nghiện rượu. Tuy nhiên, điều rõ ràng hiện nay là ethanol là độc tố gan ở người nghiện rượu không có suy dinh dưỡng. Nhưng chế độ ăn uống không đầy đủ, đặc biệt là thiếu hụt cholin, methionin và protein có thể góp phần gây tổn thưong gan do ethanol.
Những nguyên nhân không do rượu khác gây thoái hóa mỡ là béo phì (nguyên nhân phổ biến nhất), đói, đái tháo đường, các corticosteroid, các chất độc (carbon tetrachlorid và phospho vàng), các bệnh nội tiết như hội chứng Cushing, tăng lipid máu, giảm betalipoprotein máu và dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố nguy cữ như béo phì hoặc đái tháo đường là không có. Ngoài thoái hóa mỡ các mạch máu lớn, các biểu hiện về mặt mô học có thể bao gồm thâm nhiễm khu trú các bạch cầu đa nhân trung tính và hyalin Mallory, là bệnh cảnh không thể phân biệt với viêm gan do rượu và được đề cập như là bệnh gan mỡ không do rượu.
Thọái hóa mỡ vi mạch gặp trong hội chứng Reye, ngộ độc acid valproic, liều cao tetracyclin, hoặc gan nhiễm mỡ cấp tính lúc có thai và có thể dẫn đến suy gan tối cấp.
Có một vài yếu tố, hoạt động ở nhiều dạng kết hợp, có thể gây tích tụ chất béo trong gan (T) tăng huy động các acid béo từ những lắng cặn mỡ ngoại vi; (2) gan giảm sử dụng hoặc oxy hóa các acid béo; (3) tăng tổng hợp acid béo ở gan; (4) tăng ester hóa các chất acid béo thành các triglycerid; và (5) giảm tiết hoặc giải phóng các chất béo khỏi gan. Những bệnh nhân viêm gan mỡ không do rượu thường có quá tải sắt gan nhẹ và một nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng những bệnh nhân như vậy thường mang gen ứng cử cho bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (HFE); tăng sắt ở những bệnh nhân này tương quan với xơ hóa gan. Nghiên cứu khác cũng gợi ý rằng nồng độ cytochrom P450 2E1 ở gan tăng lên ở những bệnh nhân viêm gan mỡ không do rượu khi họ bị bệnh gan do rượu. Một số phụ nữ bị gan nhiễm mỡ trong lúc mang thai đã được phát hiện do có thiếu hụt sự oxy hóa acid béo do giảm hoạt độ của 3- hydroxyacyl- CoA- dehydrogenase chuỗi dài.
Các xét nghiệm chức năng gan có thể cho thấy có tăng nhẹ mức aminotransterase và phosphotase kiềm. Thoái hóa mỡ các mạch máu lớn có thể được phát hiện một cách dễ dàng trên MRl. Sinh thiết gan qua da có thể cho chẩn đoán nhưng thường không cần thiết.
Điều trị bao gồm loại bỏ hoặc thay đổi yếu tố gây bệnh. Lợi ích của việc giảm cân, chế độ ăn hạn chế mỡ và luyện tập ở những bệnh nhân béo phì vẫn còn nhiều tranh luận, Ursodeoxycholic acid liều 13- 15 mg/kg/ngày có thể cải thiện kết quả xét nghiệm chức năng gan, nhưng lợi ích của loại Thu*c này về mô học gan cần phải nghiên cứu thêm. Thử nghiệm gần đây gợi ý rằng gan thoái hóa mỡ do dinh dưỡng toàn bộ ngoài đường tiêu hóa có thể được cải thiện và có lẽ là cả phòng ngừa bằng bổ sung cholin.
Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chống dịch dịch covid dự kiến gan nhiễm mỡ khỏi bệnh mắc mới nâng cấp nhiễm mỡ sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới viêm gan