Suy tuy xương là một tình trạng bệnh lý được đặc trưng bởi sự giảm sản hoặc bất sản tế bào tủy, dẫn đến giảm một, hai hoặc ba dòng máu ngoại vi.
Bệnh suy tủy xương được Paul Ehrlich mô tả đầu tiên vào năm 1888. Ông miêu tả một bệnh nhân là phụ nữ trẻ: sôt, thiếu máu đã ch*t vì thiếu máu, xét nghiệm máu cho thấy giảm hồng cầu và bạch cầu hạt trầm trọng.
Việc khám nghiệm tử thi cho thấy tủy xương rất nhiều mỡ và rất nghèo tế bào, sau đó cái tên Alastic anemia đã được đặt cho căn bệnh này vào năm 1904. Trong suốt 30 năm tiếp theo đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh này. Từ 1930 khi lấy được mẫu tủy lúc bệnh nhân còn sống vấn đề chẩn đoán không còn khó khăn. Tuy nhiên, cơ chế bệnh sinh còn chưa rõ ràng.
Tỷ lệ mắc giữa nam và nữ là 1, bệnh gặp ở tất cả các lứa tuổi nhưng chủ yếu ở tuổi từ 16 - 45, chiếm 76 %. Một số nghiên cứu ở các nước phát triển đã cho thấy ở Thuỵ Điển 13/1 triệu dân trong 1 năm. Pháp 1,5/1 triệu dân/năm. Israel 8/1 triệu dân/năm. Mỹ 5 - 2/1 triệu dân/năm. Tỷ lệ chung cho thấy tỷ lệ mắc bệnh suy tủy xương 0 các nưóc công nghiệp phát triển là 5 - 10/1 triệu dân/năm.
Ở Việt Nam bệnh suy tủy xương đứng hàng thứ 3 trong các bệnh về máu và cơ quan tạo máu. Sau lơ xê mi cấp và xuất huyết giảm tiểu cầu.
Bệnh Fanconi, do Fanconi miêu tả năm 1927 từ 3 anh em trong 1 gia đình. Đây là bệnh di truyền lặn liên quan đến bất thường sắc tố da, người thấp, ngón cái bất thường, suy thận. Gần đây các tác giả đã phát hiện đột biến gen đặc hiệu trong thiếu máu Fanconi nằm trên nhiễm sắc thể số 9.
Phần lớn bệnh nhân Fanconi không đáp ứng với ATG hay cyclosporin A, nhưng có đáp ứng tốt vối androgen. Bệnh nhân tủ vong ở tuổi 10 - 20 tuổi khi suy tủy ngày càng nặng hoặc 10 % chuyển thành lơ xê mi.
Chloramphenicol là một nitrobenzen nó được giới thiệu vào năm 1948 và được sử dụng rộng rãi trong những năm 50 và 60.
Nguy cơ bệnh suy tủy xương ở người được điều trị bằng chloramphenicol là 1/200000 dân cao hơn 10 - 50 lần ở người dân bình thường.
Thu*c phòng sốt rét: quinacrin (Atbrine) đã được dùng cho binh lính Mỹ ở chiến trường Nam Thái Bình Dương và châu Á từ năm 1943 - 1994 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh của binh lính Mỹ ở vùng này là rất cao 7-28 ngưòi/1 triệu dân/năm.
Thu*c chống ung thư như cyclophosphamid, vincristin, 6MP, methotrexat v.v... đều gây giảm bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu, gây suy tủy.
Benzen là chất đầu tiên có liên quan đên bệnh suy tủy xương, mặc dù biết đây là chất độc nhưng benzen vẫn được sử dụng rộng rãi như là một dung môi. Đây là hoá chất không thể thiếu được trong sản xuất hàng da, cao su và được sử dụng rộng rãi trong ngành đóng giầy, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh suy tủy xương của công nhân ngành công nghiệp này là rất cao ở Trung Quốíc nơi mà benzen vẫn được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp. Tỷ lệ nhiễm độc benzen ở các công nhân là 0,5 %, tỷ lệ công nhân bị suy tủy xương cao hơn 6 lần so với dân số toàn quốc.
TNT một loại chất nổ được sử dụng trong chiến tranh. Một số công nhân tải đạn trong chiến tranh thế giới thứ I và II cũng bị nhiễm qua da và đường hô hấp, đã ch*t vì bệnh suy tủy xương.
Thu*c bảo vệ gỗ ( Lindame) được hòa với PCP (pentachlorophenol) một chất hydrocarbon bị oxy hoá được sản xuất để bảo vệ gỗ: Thu*c này cũng gây ra bệnh suy tủy xương.
Tổng số nhiễm vào cơ thể từ 100 - 250 rad (1 - 2,56 GY ) sẽ dẫn đến hội chứng dạ dày ruột non nhưng phần lốn đều hồi phục. Với liều lượng 4,5 GY sẽ gây nên suy tủy xương.
Một số nhiễm trùng nặng hoặc nhiễm trùng huyết cũng có thể gây suy tủy xương cấp, bệnh nhân thường rất nặng có thể Tu vong trong vài tuần đầu.
Một mối quan hệ nổi bật giữa bệnh viêm gan và sự phát triển tiếp theo của bệnh suy tủy xương đang là chủ đề của một số nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp bệnh nhân bị viêm gan đã ổn định thì sau 4-12 tuần người ta phát hiện ra bệnh suy tủy xương. Khoảng 10% các ca suy tủy xương xảy ra sau 1 năm bị viêm gan. Trên thực nghiệm virus viêm gan có thể gây hoạt hoá các tế bào T độc đế giải phóng các cytokin có tác dụng ức chế quá trình tạo máu ở tủy xương.
Virus Epstein - Barr đã bị coi là nguyên nhân gây bệnh suy tủy xương. Bệnh thường xuất hiện ngay sau 4 - 6 tuần bị nhiễm virus. Virus E-B được phát hiện trong tế bào tủy nhưng chưa biết chắc chắn có phải suy tủy là do ảnh hưởng trực tiếp hay chỉ là phản ứng miễn dịch của chủ. Một số bệnh nhân đã phục hồi sau khi điều trị vối ATG (Anti thymocyte globumin).
B 19 parvovirus gây suy dòng hồng cầu, giảm hồng cầu lưới. Bệnh sinh của parvovirus B 19: Trong nhiễm virus các biểu hiện của bệnh phụ thuộc vào cân bằng giữa virus và tế bào đích ở tủy xương. Parvovirus B 19 xâm nhập vào tế bào hồng cầu và nhân lên trong tế bào gây phá vỡ hồng cầu. Điều trị bằng Thu*c ức chế miễn dịch bệnh ổn định.
Bệnh nhân nhiễm HIV một số cũng thấy bị suy tủy xương, ở những bệnh nhân này tế bào tủy nghèo có thể là do sự ngăn chặn tạo máu của virus và do sử dụng nhiều loại Thu*c để kiểm soát sự nhân đôi của virus.
Do viêm khớp: bình thường bệnh nhân viêm khớp không liên quan đến suy tủy xương, một nghiên cứu gần đây ở Pháp cho thấy tỷ lệ mắc bệnh suy tủy xương ở bệnh nhân viêm khớp cao gấp 7 lần bình thường. Điều không chắc chắn là bệnh suy tủy xương có liên quan trực tiếp đến viêm khớp hay liên quan đến những Thu*c sử dụng điều trị viêm khớp.
Suy tủy ở người có thai: Thường gặp ở phụ nữ đang mang thai tháng thứ 4 hoặc tháng sắp đẻ, cơ chế chưa rõ ràng, thường bệnh nhân lặp lại trong những lần mang thai sau.
Ph* thai có thể cải thiện được chức năng sinh máu của tủy. Phương pháp điều trị bao gồm lựa chọn Ph* thai sớm, chăm sóc hỗ trợ, điều trị ức chế miễn dịch hoặc ghép tủy sau sinh.
Suy tủy ở người có tuyến giáp to, sau khi cắt bướu tuyến giáp thì hết suy tủy. Bệnh thường gặp ở nữ giới tuổi trung niên.
Đái huyết sắc tố niệu ban đêm: do màng hồng cầu rất nhậy với bổ thể dễ gây nên tan huyết, bệnh xếp vào tan máu nhưng hiện nay người ta cũng tìm thấy tổn thương tế bào gốc và có biến chứng suy tủy xương
Cho đến nay, cơ chế bệnh sinh còn chưa rõ ràng, khó có thể xác định cơ chế sinh thiếu máu bất sản cho từng bệnh nhân. Tuy nhiên, bằng thực nghiệm người ta đã đưa ra một số giả thuyêt như sau:
Tổn thương tế bào gốc do virus độc tố, hoá chất hoặc các rối loạn di truyền có thể dẫn tới giảm số lượng tế bào gốc hoặc đột biến tạo các clon tế bào gốc kém phát triển.
Các thực nghiệm trên động vật cho thấy vi môi trường tạo máu có vai trò quan trọng trong sinh máu. Các yếu tố tạo nên vi môi trường tạo máu ở tủy xương thường do các tế bào đệm giúp phát triển điều hòa sinh máu.
Tia phóng xạ có thể gây tổn thương các tế bào đệm, hậu quả sẽ dẫn đến giảm hoặc mất các yếu tốtăng trưởng..
Thiếu các chất kích thích sinh máu như IL3, GM - CFS, erythropoietin sẽ dẫn đến giảm số lượng tế bào máu.
Trên môi trường nuôi cấy tế bào, các tác giả thấy quá trình tạo máu chỉ diễn ra khi tách các tế bào lympho ra khỏi môi trường nuôi cấy, nếu thểm huyết thanh kháng lympho vào thì quá trình tạo máu được cải thiện rõ ràng. Bằng thực nghiệm các tác giả đã chứng minh được tế bào lympho T độc có vai trò ức chế quá trình tạo máu ở bệnh nhân suy tủy xương. IFNy và TCD8 hoạt hoá tăng ở bệnh nhân suy tủy xương. IFNy do TCD8 hoạt hoá tiết ra cũng được coi là chất ức chế tế bào tạo cụm. IFNy có thể tác động trực tiếp đến tế bào tạo máu hoặc thông qua hệ thông miễn dịch.
bệnh nhân thường có biểu hiện mệt, hoa mắt chóng mặt. Da xanh, niêm mạc nhợt. Các biểu hiện thiếu máu diễn ra từ từ, bệnh nhân thường thích nghi vối tình trạng thiếu máu.
34,74% bệnh nhân đến viện có hội chứng xuất huyết. Đặc điểm xuất huyết giống như trong xuất huyết do giảm tiểu cầu nhưng không rầm rộ như trong xuất huyết giảm tiểu cầu. Tuỳ theo mức độ tiểu cầu giảm mà bệnh nhân có biểu hiện xuất huyết dưới da, niêm mạc, có thể xuất huyết đường tiêu hoá, xuất huyết não, màng não v.v... Đôi khi tiểu cầu giảm dưới 10 X 109/lít, bệnh nhân vẫn không có xuất huyết.
17,7% bệnh nhân đến viện có hội chứng nhiễm trùng: bệnh nhân thường sốt cao 39° - 40°c, thường gặp nhất là viêm lợi, viêm mũi họng, viêm phê quản, viêm da. Trong một số trường hợp có nhiễm trùng máu
Số lượng bạch cầu giảm, đặc biệt công thức bạch cầu đảo ngược, bạch cầu đoạn trung tính giảm, tỷ lệ lymphocyt tăng.
Nhận định công thức máu ngoại vi chúng ta thấy số lượng hồng cầu giảm nặng, số lượng bạch cầu giảm, đặc biệt là số lượng bạch cầu hạt trung tính giảm rất nặng. Số lượng tiểu cầu giảm nặng, có trường hợp tiểu cầu giảm dưới 10 X 109/lít. Tuy nhiên có một số bệnh nhân đến viện trong tình trạng chỉ giảm một dòng hồng cầu, dòng bạch cầu và tiểu cầu bình thường. Điều đó nói lên suy tủy một dòng, hay suy tủy xương toàn bộ.
Tủy nghèo tế bào, còn lại rất thưa thớt tế bào và chủ yếu là lymphocyt, rất ít các tế bào trung gian.
Trong suy tủy xương tốc độ sắt 59 (Fe 59) ròi huyết tương chậm và hệ số sử dụng sắt của hồng cầu thấp.
Tỷ lệ TCD4 / TCD8 < 1
Xét nghiệm giảm một dòng hồng cầu, thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ. Bạch cầu và tiểu cầu bình thường.
Bệnh thường diễn biến cấp tính trong một đến vài tuần.Có hội chứng thiếu máu, sốt, gầy sút nhanh, đau xương. Có thể có hạch to, gan lách to.
Xét nghiệm máu ngoại vi giảm cả 3 dòng, nhưng khi làm xét nghiệm tủy đồ tủy giàu tế bào, có tế bào non ác tính tăng ở trong tủy xương.
Bệnh diễn biến nhanh tiến triển nặng và có thể Tu vong trong 1 vài tuần đến 2 tháng kể từ khi phát hiện bệnh.
Bệnh diễn biến từ từ kéo dài nhiều năm. Điều trị liên tục bệnh có thể kéo dài 5 - 7 năm và có nhiều bệnh nhân phục hồi hoàn toàn.
Trước năm 80 bệnh có tỷ lệ Tu vong cao, tiên lượng nặng. Trong nhiều năm gần đây việc điều trị suy tủy xương có nhiều tiên bộ và nhiều bệnh nhân đã được kéo dài cuộc sống trên 5 năm và có một số bệnh nhân phục hồi hoàn toàn.
Suy tủy xương là một bệnh cơ chế bệnh sinh chưa rõ ràng, do vậy còn có nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Ngày nay, bằng nhiều hiểu biết mới về suy tủy xương người ta điều trị đạt kết quả tốt ở một số bệnh nhân.
Prednisolon 5mg x 8 - 12 viên / ngày. Điều trị tấn công liên tục 3 - 4 tuần sau đó giảm liều. Liều duy trì 0,5 - 1 mg / kg, duy trì từ 3 - 6 tháng.
Tác dụng phụ của prednisolon: gây xuất huyết đường tiêu hoá, giữ nước, hạ K huyết, đái tháo đường, loãng xương.
Liều lượng: 15 - 40 mg/kg/ngày, truyền tĩnh mạch, điều trị từ 4 -» 10 ngày. Tỷ lệ đáp ứng là 50%, khi dùng ATG hoặc ALG cần điều trị phôi hợp với prednisolon với liều 40 - 60 mg/ngày, kéo dài 2 tuần để tránh sốc.
Tác dụng phụ của ATG hoặc ALG: hay gây phản ứng như sốt, mẩn mày đay, ngứa, ban đỏ, đau khớp, sốc phản vệ. Hồng cầu bị phá huỷ tăng nhanh trong điều trị với ATG vì vậy phải tăng cường truyền máu trong 10 ngày.
Tác dụng: Cyclosporin A có tác dụng chọn lọc lên tế bào T bằng cách ngăn chặn sự trưởng thành và làm giảm các cytokin trong tuyến ức và trong máu.
Tác dụng phụ ít hơn so với ATG: làm men gan tăng, bilirubin tăng do đó cần có sự kiểm tra và theo dõi chức năng gan.
Theo một số nghiên cứu cho thấy, điều trị cyclosporin A prednisolon liều thấp có hiệu quả giống như điều trị ATG prednisolon liều cao, tỷ lệ đạt hiệu quả tốt là 50 -» 65%, có hiệu quả hơn (70-80% lui bệnh) nếu dùng ATG Cyclosporin Prednisolon.
Chủ yếu tác dụng lên lympho B hơn lympho T. Có tác dụng ức chế miễn dịch, chống thải ghép do đó chỉ dùng trong chuẩn bị ghép tủy.
Tác dụng phụ: gây rụng tóc, buồn nôn giảm bạch cầu, độc cho tủy. Vì vậy ít được dùng cho điểu trị suy tủy xương.
Trước tiên, cần phải điều trị cyclophosphamid 50mg/kg/ngày X 4 ngày, kèm theo tia xạ toàn thân. Sau đó tiến hành ghép tủy.
Ngày nay bằng kỹ thuật gạn tách tế bào (cytophenesis), người ta loại trừ được tế bào lympho trong dịch ghép, hạn chế được biến chứng ghép chống chủ.
Phương pháp ghép tế bào gốc máu cuông rôn. Thuận lợi cơ bản là tỷ lệ tế bào gốc máu cuông rốn cao (0,5 - 1% tế bào có nhân), tế bào lympho máu cuống rốn là loại non chưa thành thục về miễn dịch nên hạn chế được nguy cơ thải ghép. Tuy nhiên số lượng ít chỉ đủ ghép cho bệnh nhi.
Ở người trưởng thành, lách có chức năng sinh kháng thể tham gia đáp ứng miễn dịch. Ngoài ra, lách còn là nơi tiêu huỷ những tế bào hồng cầu, tiểu cầu già cỗi, mất chức năng.
Ở bệnh nhân suy tủy, lách có khả năng sinh kháng thể hoạt hoá T độc, ức chế khả năng sinh máu ở tủy xương, cắt lách cho bệnh nhân suy tủy xương chưa rõ nguyên nhân sẽ có tác dụng kéo dài đời sống hồng cầu, làm tăng số lượng tiểu cầu vì không còn nơi tiêu huỷ. Ngoài ra, còn có tác dụng làm giảm lượng kháng thể hoạt hoá T độc, do vậy tủy được giải phóng, khả năng sinh máu ở tủy được phục hồi.
Tỷ lệ TCD4/TCD8 < 1.
Tuổi < 40.
Truyền tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Có tác dụng tăng bạch cầu hạt. Liều lượng: 250 —> 300 pg / ngày.
Truyền khối tiểu cẩu khi có chảy máu hoặc khi tiểu cầu dưới 10G/1 Cần hạn chế truyền tiểu cầu vì dễ gây ra kháng thể kháng tiểu cầu.
Truyền khôi bạch cẩu khi có nhiễm trùng và số lượng bạch cầu hạt trung tính dưối 0,5 G/l. Không truyền dự phòng khi chưa có nhiễm trùng.
Nguồn: Internet.