Nói chung, tốt hơn hết là chúng ta nên thật thông thạo một vài loại Thu*c và phương pháp điều trị hơn là chúng ta sử dụng thật nhiều lọại. Thêm vào đó là không phải tất cả các chất Thu*c gốc dùng bôi ngoài da đều tương đương, như các biệt dược được sản xuất về hiệu lực và về các phụ dược "trơ" có trong công thức Thu*c có thể gây dị ứng hoặc gây kích thích da. Chúng ta nên ghi nhớ, tất cả những điều trên khi đánh giá về tác dụng phụ và hiệu lực của Thu*c. Khi nghi ngờ về phương pháp điều trị, chúng ta nên dùng liều nhỏ, hơn là dùng quá liều. Khi sử dụng Thu*c bôi có chứa corticosteroid mạnh kéo dài, không đúng phương pháp mà không được theo dõi, có thể gây tác dụng phụ không thể đảo ngược được.
Các Thu*c bôi kháng sinh, neomycin là loại Thu*c có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của Thu*c bôi cũng dễ gây dị ứng.
Các Thu*c pha chế thuộc nhóm Acid retinoic, Benzoyl peroxid, và các Thu*c chữa trứng cá khác nên được dùng một cách phù hợp và đúng chỉ dẫn. Dùng đi dùng lại lindan và các loại xà phòng kháng khuẩn có thể gây kích thích da. Podophyllum cũng có thể rất gây kích thích da; Kem chống nắng có yếu tố chống nắng cao cũng có thể gây kích thích da ở một vài bệnh nhân.
Thu*c có thể bị hấp thu qua da, đặc biệt là vùng da gần niêm mạc, qua vùng da bị xây xước hoặc vùng da bị viêm, hoặc từ vùng da được băng bịt. Nói chung liều hấp thu vào cơ thể ở trẻ em nhiều gấp 3 lần so với người lớn. Chúng ta nên nhớ rằng không được dùng Podophyllum resin cho phụ nữ có thai. Lindan không được dùng cho phụ nữ có thai và trẻ em, nó có thể được thay thế bằng kem Permethrin 5% ở trẻ em, và đối với phụ nữ có thai, có thể thay bằng Permethrin hoặc Sulfua kết tủa. Những chất có chứa phenol chống chỉ định dùng ở vùng bị da bị xây xước hoặc niêm mạc của trẻ em. Sử dụng thiếu cân nhắc các Thu*c bôi loại corticosteroid mạnh và trung bình với số lượng lớn, hoặc dùng thời gian quá dài, đặc biệt là băng bịt Thu*c bằng nilon có thể gây ra hậu quả đáng chú ý như hấp phụ qua đường toàn thân, hậu quả hiếm gặp là suy thượng thận - yên và hoại tử xương vô khuẩn.
Thu*c bôi corticosteroid có thể gây các thương tổn giống trứng cá ở trên mặt (trứng cá đỏ do steroid), gây teo da và rạn da ở các nếp da.
Xà phòng và những chất tẩy rửa chỉ nên dùng ở vùng nách, bẹn và chân của những người có da khô và da dễ bị kích thích. Trừ những người mà nghề của họ phải tiếp xúc với dầu mỡ và chất dơ bẩn, hầu hết chúng ta không nhất thiết phải dùng xà phòng trên toàn bộ bề mặt của dạ, và khi nắm được kiến thức như vậy họ sẽ sử dụng tuân theo những giới hạn này hơn là cấm hoàn toàn dùng xà phòng. Tạm với nước có thêm một ít dầu tắm có thể được, nhưng nó kém hiệu quả hơn là bôi dầu ngay sau khi tắm.
Các đại diện Thu*c corticosteroid bôi như: dạng kem, dung dịch, dạng mỡ, dạng gel; dạng phun được trình bày trong bảng. Chúng cơ bản có lợi trong điều trị các bệnh viêm da có ngứa. Việc pha chế Thu*c theo nguyên tắc chung sau: trung bình cứ 20 - 30g bôi một lần toàn bộ bề mặt da của người lớn.
Loại này dùng tốt nhất cho các vùng mặt, bẹn, và các nếp gấp của da và dùng mạn tính. Tuy nhiên nếu dùng kéo dài, không có giám sát thì Desonid có thể gây tác dụng phụ ở một số bệnh nhân.
Loại này chỉ nên dùng trong một giai đoạn ngắn, ở vùng thương tổn khu trú, và cũng giống như loại steroid mạnh và trung bình, không được dùng cho các vùng mặt, ngực, bộ phận Sinh d*c, và các nếp gấp của da.
Bằng cách bôi có chọn lọc lên các thương tổn của vảy nến, hoặc liken phẳng hoặc chàm vào các buổi tối, thời gian đầu bôi corticosteroid loại có tác dụng nhẹ rồi được băng bịt lại bằng giấy bóng kính mỏng, sau đó nồng độ của Thu*c bôi steroid sẽ được tăng dần lên. Đối với đỏ da toàn thân do vảy nến hoặc chàm thể tạng có thương tổn lan rộng thì điều trị bằng cách băng bịt một cách thích hợp có thể mang lại kết quả tốt. Tuy nhiên có một số tác dụng phụ như hạt kê, rạn da, viêm da mủ, teo da tại chỗ, có mùi hôi và bội nhiễm nấm. Rất hiếm gây suy thượng thận khi băng bịt một vùng rộng của da. Clobetason và Halobetason không nên băng bịt.
Có thể dùng các chất sau: Pétrolatum, dầu mỏ, Aquaphor, hoặc kem Eucerin. Nếu như da quá khô có thể làm cho da ẩm, như tắm để làm ướt lớp keratin, và sau khi thấm khô bằng khăn nên bôi một trong các chất trên để giữ cho da ẩm. Dầu mỏ phải bôi ngay khi da còn ướt. Không nên chà xàt da làm thương tổn tới cảc nang lông gây viêm nang lông mà chỉ nên lau nhẹ theo một chiều nhất định. Nếu da trở nên quá nhờn sau khi bôi Thu*c thì nên dùng khăn ẩm thấm khô.
Trong một số trường hợp, các dung dịch như Lubriderm, Natraderm, Eucerin, và Moisturel có thể rất tốt vì chúng không gây nhờn quá như các loại mỡ và kem. Có thể gây ngứa, khô da và bệnh vẩy cá khi dùng dung dịch Lactat 12% (Lac-Hydrin) hay dung dịch glycolic acid (OTC) ở những vùng không viêm.
Nếu như da trở nên rỉ nước do viêm hoặc nhiễm khuẩn thì việc làm cho da khô là rất cần thiết. Chất làm khô da tốt nhất là nước và đắp liên tục, có hoặc không có thêm các chất như muối nhôm (dung dịch Burow, viên Domeboro), keo bột yến mạch là bước ban đầu tốt, các dung dịch hồ như hồ nước và bột có thể gây vảy bẩn khi dùng các Thu*c này không đúng nguyên tắc.
Dung dịch chứa 0,5% camphor, menthol và phenol giảm ngứa rất có hiệu quả trong những trường hợp ngứa nhẹ.
Nói chung, Thu*c chặn H1 là Thu*c được chọn để chống ngứa do histamin gây nên, ví dụ như bệnh mày đay. Mặc dù tác dụng giảm ngứa của chúng là do tác dụng an thần chứ không phải do tác dụng kháng histamin. Các nhóm khác nhau có tác dụng an thần khác nhau, nhóm kháng histamin thế hệ hai có tác dụng an thần kém thì tác dụng giảm ngứa cũng yếu. I
Ba Thu*c kháng histamin ít gây ngủ là Loratadin, Terfenadin, và Astemizol. Một số Thu*c chống trầm cảm như Doxepin cũng có tác dụng kháng, histamin và có lợi trong điều trị mày đay.
Một số Thu*c an thần, Thu*c chống trầm cảm và một số Thu*c tâm thần khác có tác dụng giảm ngứa rất tốt nhưng phải được các bác sĩ chuyên khoa theo dõi cẩn thận.
Che chở da khỏi ảnh hưởng của các tia cực tím nên bắt đầu ngay sau khi được sinh ra. Sự khắc sâu các quan điểm kiến thức về tắm nắng là một mục tiêu quan trọng trong y tế cộng đồng, ở người có da trắng, nắng có thể gây bệnh dày sừng ánh nắng, bớt, ung thư tế bào gai, ung thư tế bào đáy và ung thư sắc tố. Phương pháp bảo vệ tốt nhất là che nắng, ngoài mặc quần áo còn cần tránh náng chiếu trực tiếp vào 5 giờ cao điểm trong ngày, siêng năng dùng kem chống nắng khi ra nắng là rất quan trọng. Các ước tính cho rằng những trẻ em có nước da trắng cần dùng kem chống nắng thường xuyên, sự xuất hiện ung thư da trong cuộc đời của chúng có thể sẽ được giảm khoảng 75%.
Có một số kem chống nắng có hiệu quả cao rất có giá trị. Người có nước da trắng nên dùng kem chống nắng có số yếu tố chống nắng cao (SPF: Sun Protective factor) ít nhất là 15 có thể tới 30 - 40. Đối với những người nhạy cảm với PABA (p - aminobenzoic acid) thì nên dùng các loại kem chống nắng không có chứa PABA như: Neutrogena SPF 15, Solbar SPF 15, TI - Screen SPF 15, Presun 29. Loại kem Solbar PF (không chứa PABA) có SPF là 50, rất thuận tiện. Kem chống nắng có SPF > 25 không những chống được UVA mà còn chống được UVB và rất có lợi trong việc giảm các rối loạn do ánh nắng gây ra. Nhiều loại mỹ phẩm như dầu che chở UV của Olay, có chứa chất chống nắng với SPF là 15 trong chất cơ bản, không gây nhờn, phù hợp để dùng ban ngày. Kem chống nắng đục nên chứa Titanium dioxid, vì oxid kẽm đơn thuần là chất có tác dụng chống nắng ít.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chống dịch dịch covid điều trị dự kiến khỏi bệnh mắc mới nâng cấp ngoài da nguyên tắc sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới