Loài người từng không ít lần “rung chuyển” vì đại dịch, song bằng thiên tính của loài mạnh nhất, con người luôn vượt qua và ngày càng trở nên mạnh hơn.
Đại dịch hạch đầu tiên mà loài người gánh chịu xảy ra vào triều đại vua Justinian I (483 - 565 sau Công nguyên) cai trị Đế quốc Byzantine (còn gọi là Đông La Mã) bởi vi khuẩn dịch hạch (Yersinia pestis). Do điều kiện vệ sinh kém, dân trí thấp nên trận dịch này đã giết ch*t khoảng 50 triệu người khắp vùng Trung Á, Trung Đông, Bắc Phi, chiếm một nửa dân số thế giới khi ấy.
Người nhiễm bệnh khi ấy có thể được nhân viên y tế chữa trị hoặc thực hiện các biện pháp khắc phục tại nhà bằng cách tắm nước lạnh, dùng bột phấn để bôi và nhiều loại Thu*c chứa alkaloid có dược tính mạnh. “Loài người lúc ấy đã không có hiểu biết đúng đắn để chiến đấu với đại dịch này, họ chỉ tìm cách tránh xa những người bệnh”, Thomas Mockaitis, GS sử học Trường Đại học DePaul nói. Được thành lập từ năm 1898, DePaul University là trường đại học Công giáo lớn nhất nước Mỹ.
Bệnh dịch không bao giờ mất đi vĩnh viễn, cách đây 800 năm có một đợt dịch hạch bỗng nhiên quay trở lại và cướp đi sinh mạng của nhiều người. Dịch này được gọi là Cái ch*t đen, xảy ra ở châu Âu vào năm 1347. Hậu quả của nó thảm khốc đến bất ngờ với con số từ 75 tới 200 triệu người ch*t trong vòng 4 năm (Anh check lại bác Thư Vũ giúp em, hình như chỉ 25 triệu).
Theo GS Thomas Mockaitis, con người khi đó không có đủ hiểu biết khoa học về sự truyền nhiễm để ngăn chặn dịch bệnh, nhưng người ta đã biết rằng nó dễ lây khi gần với người bệnh. Vì vậy, những quan chức cấp tiến ở hải cảng Venetian của Ragusa đã quyết định những thủy thủ mới cập bến phải cách ly cho đến khi họ chứng minh được là mình không bị ốm. Thủy thủ bị cách ly ngay trên tàu của họ trong 30 ngày, điều này trở thành luật của nước cộng hòa Venetian, là quốc gia xuất phát từ thành phố Venezia (Italia) và tên luật đó là Trentino (tên một tỉnh tự trị của Italia).
Theo thời gian, thành phố này đã tăng thêm thành 40 ngày cách ly hay còn gọi là quarantino và nó bắt đầu được áp dụng ở các nước phương Tây từ đó. Một vài đợt dịch bệnh nhỏ hơn diễn ra ở châu Âu do bọ chét và kéo dài trong nhiều năm. Các trường học tạm đóng cửa. Đại dịch chỉ giảm thiểu vào năm 1351, khi người dân thực hiện vệ sinh cá nhân, môi trường tốt hơn và thực hành y tế công cộng.
Thành Luân Đôn chưa bao giờ gặp may mắn sau đợt dịch Cái ch*t đen. Trung bình 20 năm một đợt dịch tái xuất hiện. Song nếu tính từ năm 1347 - 1665, nghĩa là hơn 300 năm, đã có 40 lần dịch bệnh bùng phát. Và cứ sau mỗi hiểm họa đã cướp đi 20% cư dân của Vươngquốc Anh.
Vào đầu thế kỷ 16, lần đầu tiên Anh Quốc áp dụng đạo luật chia và cách ly người bệnh. Những gia đình bị ảnh hưởng của dịch bệnh được đánh dấu bằng những sợi rơm quấn lên cây sào cắm ở bên ngoài. Nếu gia đình có người đã nhiễm bệnh thì các thành viên phải đeo một chiếc khăn trắng nơi công cộng. Người ta cho rằng chó, mèo là những vật trung gian truyền bệnh chính vì thế mà đã có những chiến dịch tàn sát động vật với quy mô lớn diễn ra.
Đại dịch xảy ra năm 1665 với quy mô dài nhất thế kỷ 17, là đại dịch cuối cùng nhưng cũng là đợt dịch bệnh để lại hậu quả thảm khốc nhất từ trước tới nay, 100.000 người ở Luân Đôn đã ch*t chỉ trong vòng 7 tháng. Tất cả các hoạt động giải trí đều bị cấm và các nạn nhân bị buộc phải đóng cửa ở trong nhà để phòng ngừa dịch lan rộng hơn. Ở trên các cánh cửa ra vào đều sơn chữ thập màu đỏ và bên cạnh là dòng chữ: “Chúa hãy rủ lòng thương chúng con”.
Người Anh đành chấp nhận việc làm bất đắc dĩ là nhốt những người ốm trong nhà và chôn người ch*t trong mộ tập thể, đây được coi là cách duy nhất để khi đó người ta có thể chấm dứt được đại dịch khủng khiếp này.
Thực dân châu Âu xâm chiếm châu Mỹ vào thế kỷ 17 và mang theo cả bệnh đậu mùa (do virus Variola gây ra) tới lục địa này. Bệnh đậu mùa đã cướp đi sinh mạng của khoảng 20 triệu người, gần 90% dân số ở châu Mỹ khi đó. Chỉ tính riêng từ năm 1519 - 1520 tại Mexico có từ 5 - 8 triệu người ch*t vì bệnh đậu mùa. Phải đến cuối thế kỷ 18, căn bệnh này mới bắt đầu được phòng ngừa bằng vắc-xin, người có công là bác sĩ người Anh, Edward Jenner (1749 - 1823). Trước đó, chính ông đã phát hiện ra những người vắt sữa bò bị mắc một loại virus nhẹ hơn mà ông đặt tên nó là cowpox - căn bệnh cùng họ với đậu mùa.
Ban đầu bệnh ở gia súc, biểu hiện có nốt trên da, nó nhẹ hơn đậu mùa, chủng virus này có vẻ miễn dịch đối với bệnh đậu mùa. Edward Jenner được nhiều người biết đến với việc trích ngừa chủng cowpox cho một cậu bé 9 tuổi, con trai của một người làm vườn của ông. Kết quả là bé trai đã được miễn dịch với virus đậu mùa ch*t người đó.
Vào năm 1801, bác sĩ Edward Jenner đã viết: “Sự tàn phá của căn bệnh đậu mùa - một trong những tai họa khủng khiếp nhất của loài người đã đến hồi kết”. Nhưng nhân loại phải mất thêm gần 2 thế kỷ để làm được việc đó. Sau đó, nhiều quốc gia thực hành tiêm chủng để phòng đậu mùa. Năm 1980, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố đậu mùa đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Cho đến nay đậu mùa vẫn là căn bệnh duy nhất mà con người xóa sổ được trên phạm vi toàn cầu.
Từ đầu đến giữa thế kỷ 19, bệnh tả đã làm tan hoang cả nước Anh, cướp đi sinh mạng ít nhất 10.000 người. Theo quan điểm khoa học thời bấy giờ, căn bệnh này bùng phát và lan rộng là do xuất hiện những luồng không khí bẩn mà người ta gọi nó là “miasma”, nghĩa là chướng khí, thoát ra từ những nơi có chất hữu cơ thối rữa. Đáng sợ là đa phần bệnh nhân Tu vong ngay khi vừa xuất hiện các triệu chứng của bệnh.
Tuy nhiên, một bác sĩ người Anh có tên John Snow đã nghi ngờ về căn nguyên của bệnh tả, và cuối cùng ông đã tìm ra nguồn bệnh là do nó từ nước máy. John Snow đã tiến hành điều tra các bệnh án ở bệnh viện và các báo cáo từ nhà xác để truy tìm một cách chính xác khởi nguyên của căn bệnh nguy hiểm này. Ông đã vẽ ra biểu đồ của các ca Tu vong do bệnh tả trong vòng 10 ngày. Đặc biệt, một nhóm 500 người ch*t đều sống quanh khu vực trạm bơm nước Broad Street, đây là chiếc giếng chính cung cấp nước ăn nổi tiếng của thành phố.
John Snow đã viết: “Khi hiểu nhiều hơn về tình trạng bệnh dịch, sự lan truyền nhanh chóng trong cộng đồng thì tôi tin rằng nguồn nước tại các máy bơm trong thành phố đang bị ô nhiễm rất nặng bởi tạp chất nào đó”. Với những nỗ lực phi thường, ông đã thuyết phục được các quan chức địa phương bắt tay vào việc tháo bỏ những chiếc máy bơm nước ăn tại Broad Street. Như có phép lạ sau đó dịch bệnh không còn lây lan.
Trong suốt thế kỷ 19, có khoảng 6 đợt dịch tả xảy ra trên toàn thế giới. Đại dịch tả đầu tiên bắt đầu ở Jessore, Ấn Độ (1817 - 1823) và giết ch*t hàng triệu người dân Ấn Độ khi ấy. Sau đó, dịch tả bùng phát thêm nhiều đợt mới lan nhanh khắp các châu lục trong thời gian ngắn.
Bài học ở đây là việc sớm tìm ra căn nguyên, khởi nguồn của bệnh mà bác sĩ - người hùng John Snow đã làm được. Hiện nay tại các nước phát triển không còn vấn nạn nhiễm khuẩn nước máy nữa, tuy nhiên nguy cơ vẫn đang hiển hiện hàng ngày tại các nước đang phát triển, nơi mà hệ thống xử lý nước thải còn đang thiếu và việc tiếp cận nguồn nước sinh hoạt sạch đang rất hạn chế.
Những trường hợp mắc cúm đã xảy ra với binh lính người Hy Lạp trong cuộc Chiến tranh Peloponnisos, một cuộc chiến giữa các thành bang Hy Lạp cổ đại vào năm 430 trước Công nguyên. Nhưng bệnh cúm đầu tiên thực sự bắt đầu khi nó lan rộng ra tới châu Âu và Bắc Mỹ. Không ai thống kê được số người Tu vong một cách chính xác nhưng mới chỉ tính nguyên thành Rome ít nhất là 8.000 người ch*t.
Giai đoạn này người ta chứng kiến các biện pháp cách ly khẩn cấp và phong tỏa các chốt biên giới ở châu Âu. Những gì ban đầu liên quan đến từ “cúm” (influenza) được ghi lại trong tài liệu khoa học xuất bản năm 1650 có gốc từ ngôn ngữ Italia “influence” - có thể nghĩa đen của nó là sự ảnh hưởng do các hành tinh lệch vị trí.
Chủ đề liên quan:
cách ly đại dịch dịch bệnh Phong tỏa thế giới tổ chức y tế thế giới truyền nhiễm vắc xin vật trung gian truyền bệnh