Tổ chức này cũng dự đoán Mỹ sẽ có hơn 268 nghìn người được chẩn đoán mắc ung thư vú vào cuối năm 2019, 41 nghìn người Tu vong do bệnh này và hơn 3 triệu phụ nữ đang sống chung với nó.
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K Trung ương năm 2018, cứ 100.000 phụ nữ có 26,4 người bị ung thư vú, tăng so với 5 năm trước đây (24,4 trên 100.000 người). Ước tính trung bình mỗi năm có hơn 15.000 nữ giới được phát hiện ung thư vú, hơn 6.000 ca Tu vong và 42.000 phụ nữ Việt đang sống chung với bệnh.
- Nguy cơ mắc ung thư vú sẽ suy giảm nếu phụ nữ thay đổi lối sống như chăm chỉ tập thể dục, không uống rượu, nước ngọt, hút Thu*c và duy trì cân nặng khỏe mạnh.
- Chụp X-quang là công cụ sàng lọc phổ biến để phát hiện ung thư vú nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi về độ tuổi bắt đầu.
Hiệp hội X-quang Mỹ (ACR) khuyến nghị phụ nữ sàng lọc hàng năm bắt đầu từ tuổi 40, trong khi Lực lượng phòng ngừa đặc nhiệm Mỹ (USPSTF) lại khuyên nên bắt đầu từ 50 tuổi với tần suất 2 năm một lần.
Còn Hiệp hội Ung thư Mỹ (ACS) khuyến cáo phụ nữ sáng lọc hàng năm bắt đầu từ 45 tuổi, hoặc nếu muốn, họ cũng có thể bắt đầu từ tuổi 40.
- Hiện, phương pháp nhũ ảnh 3D tomosynthesis (chụp X-quang vú 3D) có tỷ lệ phát hiện ung thư vú cao hơn và ít xảy ra "báo động sai", trường hợp phụ nữ khỏe mạnh được cảnh báo cần kiểm tra thêm.
- Với các bệnh nhân có mô vú dày đặc, siêu âm sàng lọc có thể cải thiện tỷ lệ phát hiện bệnh. Còn các bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư vú cao nhất (béo phì, gia đình có tiền sử ung thư...) cần chụp cộng hưởng từ (MRI) kết hợp chụp X-quang để nâng cao khả năng sống sót.
Trong các yếu tố di truyền, họ thường dự đoán thông qua nhiều đột biến, trong đó, BRCA1 và BRCA2 là hai đột biến được biết đến nhiều nhất. Tuy nhiên, các bác sĩ không thường xuyên kiểm tra các đột biến này nếu người bệnh không có nguy cơ mắc bệnh cao, tức không có tiền sử gia đình bị đột biến gen hoặc người thân thích (first-degree) bị ung thư vú.
Nguyên nhân đột biến BRCA1 và BRCA2 là do tính di truyền. Vì vậy, các bác sĩ cần biết bất kỳ người thân nào trong gia đình từng mắc ung thư vú hay buồng trứng hay chưa. Tiểu sử gia đình là điều vô cùng quan trọng vì các bác sĩ cần dựa vào nó để quyết định sàng lọc sớm cho phụ nữ.
Tuy nhiên, theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, lịch sử di truyền chỉ chiếm 5-10% trong tổng số ca mắc ung thư vú. Việc từng phải xạ trị khoang ngực ở độ tuổi từ 10 đến 30 để điều trị ung thư hạch hay một số bệnh khác cũng là một trong những yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
Điều trị ung thư là một quá trình cực khổ nhưng với những tiến bộ trong điều trị, người bệnh và bác sĩ có thể tìm ra kế hoạch chữa bệnh lý tưởng nhất.
Một trong những quy trình phổ biến nhất hiện nay là các bác sĩ phẫu thuật thường loại bỏ ung thư bằng một thủ thuật gọi là lumpectomy và thực hiện kế hoạch xạ trị sau đó. Kỹ thuật này có thể bảo tồn được hầu hết các mô vú. Nếu ung thư tiến triển hơn, các bác sĩ sẽ thực hiện liệu pháp mastectomy, cắt bỏ toàn bộ vú.
Tuy nhiên, ung thư vú có rất nhiều loại. Do đó, tùy theo tình trạng thụ thể hoóc môn ung thư và yếu tố di truyền, hiệu quả của các phương pháp điều trị sẽ khác nhau.
Một thụ thể quan trọng khác là HER2. Loại ung thư này có thể thực hiện phương pháp điều trị nhắm mục tiêu.
Còn loại ung thư không có các thụ thể này được gọi là ung thư vú bộ ba âm tính. Đây là loại bệnh nguy hiểm nhất, buộc người bệnh phải có phương pháp điều trị tích cực hơn là hóa trị.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các xét nghiệm như MammaPrint hay OncotypeDx có thể được phân loại thành ung thư có nguy cơ tái phát thấp hoặc cao. Nếu người bệnh có nguy cơ tái phát di truyền thấp, có thể không thực hiện hóa trị liệu.
Ngoài yếu tố trên, các bệnh nhân có khối u nhỏ hoặc giai đoạn chẩn đoán sớm cũng có thể không thực hiện liệu pháp này.