Nhuyễn xương dùng để chỉ mềm xương, thường gây ra bởi sự thiếu hụt vitamin D. Ở trẻ em, điều kiện này được gọi là bệnh còi xương. Mềm xương có nhiều khả năng cong và gãy xương hơn xương khỏe mạnh.
Nhuyễn xương không giống như loãng xương, rối loạn xương khác cũng có thể dẫn đến gãy xương. Nhuyễn xương kết quả từ một khiếm khuyết trong quá trình tạo xương, trong khi phát triển bệnh loãng xương do sự suy yếu của xương trước đây xây dựng.
Đau nhức xương và yếu cơ là những dấu hiệu lớn và các triệu chứng của loãng xương. Điều trị loãng xương bao gồm việc bổ sung thêm mức độ thấp của vitamin D và canxi, và điều trị các rối loạn cơ bản bất kỳ mà có thể gây ra những thiếu sót.
Trong giai đoạn đầu, có thể không có triệu chứng loãng xương, mặc dù các dấu hiệu của loãng xương có thể rõ ràng về hình ảnh X-quang hoặc xét nghiệm chẩn đoán khác. Khi loãng xương nặng hơn, có thể bị đau xương và suy nhược cơ bắp.
Cơ thể sử dụng canxi và phosphate để xương chắc khoẻ. Nhuyễn xương có thể xảy ra nếu không có đủ các khoáng chất trong chế độ ăn uống hoặc nếu cơ thể không hấp thụ chúng đúng cách. Những vấn đề này có thể là do:
Ánh sáng mặt trời tạo ra vitamin D trong da. Cơ thể cần vitamin D để quá trình canxi. Nhuyễn xương có thể phát triển ở những người dành ít thời gian trong ánh sáng mặt trời, mặc áo chống nắng rất mạnh, vẫn bao phủ khi bên ngoài, hoặc sống trong các khu vực ánh sáng mặt trời ngắn hoặc tối.
Một chế độ ăn ít vitamin D là nguyên nhân phổ biến nhất của loãng xương trên toàn thế giới. Tuy nhiên, gây ra ít hơn ở Hoa Kỳ bởi vì nhiều loại thực phẩm như sữa và ngũ cốc, được tăng cường với vitamin D.
Loại bỏ một phần hoặc toàn bộ dạ dày (dạ dày) có thể gây loãng xương vì dạ dày phá vỡ các loại thực phẩm để giải phóng vitamin D và khoáng chất khác, được hấp thụ trong ruột non. Phẫu thuật để loại bỏ, hoặc bỏ qua ruột non cũng có thể dẫn đến loãng xương.
Trong rối loạn tự miễn dịch, niêm mạc ruột non bị hư hỏng do tiêu thụ thực phẩm có chứa gluten, một loại protein được tìm thấy trong lúa mạch, lúa mì và lúa mạch đen. Hư hỏng màng ruột không hấp thu chất dinh dưỡng, chẳng hạn như vitamin D.
Một số loại Thu*c dùng để điều trị động kinh, bao gồm phenytoin (Dilantin, Phenytek) và phenobarbital, có thể gây loãng xương.
Nguy cơ loãng xương phát triển cao nhất ở những người có cả hai chế độ ăn uống không đầy đủ lượng vitamin D và ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, chẳng hạn như người cao niên và những người đang trong nhà hoặc nằm viện.
Để xác định nguyên nhân gây loãng xương và để loại trừ các rối loạn xương khác, chẳng hạn như loãng xương, có thể trải qua một hoặc một số các xét nghiệm sau đây:
Trong trường hợp loãng xương do thiếu vitamin D hoặc do phốt pho mất mát, mức bất thường của vitamin D và khoáng chất canxi và phốt pho thường được phát hiện.
Vết nứt nhẹ trong xương được hiển thị trên X-quang, được gọi là nới lỏng các khu chuyển đổi, là một tính năng đặc trưng của người dân với loãng xương.
Trong sinh thiết xương, bác sĩ chèn kim mảnh qua da và vào xương để thu hồi một mẫu nhỏ để xem dưới kính hiển vi. Mặc dù xương sinh thiết là rất chính xác trong việc phát hiện loãng xương, nhưng nó không phải thường xuyên cần thiết để làm chẩn đoán.
Khi nhuyễn xương phát sinh từ sự thiếu hụt dinh dưỡng hoặc ánh sáng mặt trời, bổ sung thêm mức độ thấp của vitamin D trong cơ thể thường là phương pháp chữa trị bệnh này.
Nói chung, những người có loãng xương có bổ sung vitamin D bằng miệng trong thời gian vài tuần đến vài tháng. Ít gặp hơn, vitamin D được cho tiêm hoặc thông qua một tĩnh mạch ở cánh tay.
Nếu nồng độ canxi trong máu hoặc phốt pho là thấp, có thể uống bổ sung những khoáng chất. Ngoài ra, xử lý bất kỳ điều kiện ảnh hưởng đến sự chuyển hóa vitamin D, như suy thận hoặc xơ gan đường mật chính, thường xuyên giúp cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng của loãng xương.
Loãng xương gây ra bởi ánh nắng mặt trời không đầy đủ hoặc chế độ ăn uống vitamin D thấp thường có thể được ngăn chặn. Dưới đây là một vài gợi ý để giúp giảm nguy cơ loãng xương phát triển:
Đối với hầu hết mọi người, 15 phút ánh nắng mặt trời trực tiếp một vài lần một tuần là đủ để sản xuất vitamin D thích hợp.
Chúng bao gồm các loại thực phẩm tự nhiên giàu vitamin D, bao gồm cả dầu cá (cá hồi, cá thu, cá mòi) và lòng đỏ trứng. Ngoài ra hãy tìm loại thực phẩm có tăng cường chất vitamin D, như ngũ cốc, sữa, bánh mì và sữa chua.
Nếu không nhận được đủ vitamin và khoáng chất trong chế độ ăn uống hoặc nếu có một tình trạng y tế ảnh hưởng đến khả năng của hệ thống tiêu hóa hấp thụ chất dinh dưỡng đúng cách, hỏi bác sĩ về việc dùng vitamin D bổ sung canxi.