Người dân làng Nhân Hậu (nay là Đại Hoàng) ở ngã ba cửa sông phía Nam. Hơn nữa, lại nằm trong vùng đất phủ Thiên Trường xưa, nên hầu như dân trong làng Đại Hoàng đều mang họ Trần. Liệt sĩ, nhà văn Nam Cao (Trần Hữu Tri) được sinh ra tại đây (1917-1951).
Khi nói đến là Đại Hoàng, ai cũng nghĩ tới cái tên làng Vũ Đại, gắn với hình tượng Chí Phèo, Thị Nở và Bá Kiến. Người ta vẫn thường gọi cái tên Vũ Đại thay vì Đại Hoàng, cho dù trong địa chỉ hành chính không hề có. Gần đây, tôi được nghe tin làng “Vũ Đại” có một dị nhân, cụt cả hai tay nhưng vẫn bốc Thu*c khám bệnh cứu người. Đã là một sự lạ. Chưa hết, dị nhân còn chập cùi tay kẹp bút viết văn, làm thơ. Thật khó tin. Tôi tò mò vượt hơn 100 cây số tìm về nơi ngã ba sông này
Khi gặp được lương y trần đức mô, với đôi tay bị cụt gần đến khuỷu, tôi càng khó tưởng tượng hơn. ông viết văn bằng cách nào!? nhìn đôi mắt hiền hậu nhưng lại đầy linh hoạt của ông thể hiện một tính cách mạnh mẽ và lạc quan. ông cười. một nụ cười viên mãn ở tuổi 70. viết bằng cách nào ư? ông lấy cùi tay vỗ vào phía ngực trái rồi nói, viết bằng trái tim và tâm hồn mình chứ sao. rồi ông ngâm mấy câu thơ như một thiền sư, thâm trầm trong suy tưởng. một cốt cách khác lạ. chẳng nói thêm một câu nào nữa, lấy hai cùi tay kẹp bút viết cho tôi xem, như một minh chứng. dòng chữ nắn nót đều tăm tắp nghiêng nghiêng trên trang vở học trò. đó cũng là một câu thơ mà ông đã viết về quê hương trên dòng sông châu giang. sau đó ông giải thích, người ta còn viết bằng chân, bằng mồm còn được nữa là cùi tay như tôi. ông lại lấy cùi tay gõ lên đầu nói, có nghĩ được cái gì để viết không mới khó, chứ còn cầm bút bằng cách nào dễ ợt.
Nhưng có lẽ khi kể đến chuyện gặp T*i n*n, bị điện cao thế giật cháy thui cả hai bàn tay đến khuỷu tay, thì ông vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng. Cho dù T*i n*n xảy ra cách đây hơn 30 năm, sau khi đi bộ đội chống Mỹ về, ông đã mấy lần định Tu tu vì khủng hoảng tâm lý và thấy mình bất lực, vô dụng. Nhưng với bản lĩnh của người chiến sĩ xông pha nơi trận mạc, ông đã vượt lên để giành lấy sự sống, làm những việc có ích cho gia đình vợ con. Tôi hỏi, ông bắt đầu như thế nào, khi đứng dậy sau cơn khủng hoảng. Lập tức ông đưa tôi ra vườn. Ông nhanh nhẹn vớ lấy cây cuốc xới những luống rau cải. Có nghĩa là hãy đứng dậy làm việc. Tôi càng ngạc nhiên vì khuỷu tay ông xoay nhanh điều khiển cái cán cuốc bổ xuống đất. Đó cũng là luống rau đầu tiên ông trồng được đem ra chợ bán. Sau này thửa vườn đã được ông trồng cây Thu*c nam để trị bệnh cho mọi người.
Nắng cuối thu, tôi ngồi bên bàn trà cũng là nơi ông viết văn, làm thơ. Ông ký tặng tôi tập thơ “Hương đất” (in năm 2009), với bút danh Từ Thiết Linh. Tôi sực nhớ đến cái tên Từ Thiết Linh, bởi tôi đã đọc ở đâu đó rồi. Ông nói có thể đó là bài thơ đầu tiên được in trên báo Tiền Phong từ năm 1991. Hiện ông là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam. Tính từ đó đến nay, ông đã “ôm” bút bi viết được hàng trăm bài thơ và in tới 5 tập sách, cùng mấy giải thưởng. Đặc biệt, nhà văn Từ Thiết Linh đã được trao giải nhất truyện ngắn, từ năm 2000 về đề tài công nhân, do Liên đoàn Lao động và Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam tổ chức. Sau đó, nhà văn Từ Thiết Linh còn đoạt Giải thưởng văn học Nguyễn Khuyến lần thứ tư (2007-2010). Chỉ nghĩ đến việc viết văn của lương y Trần Đức Mô, tôi đã thầm phục nghị lực phi thường của ông. Ấy là chưa kể đến kỳ công ông theo đuổi ngành Thu*c Đông y cũng đã 30 năm nay. Hiện ông là hội viên Hội Đông y huyện Lý Nhân, thường tham gia khám chữa bệnh từ thiện cho những người nghèo, quanh vùng.
Khắp bàn dân thiên hạ đều biết, làng đại hoàng nổi tiếng có nghề dệt vải thô và nghề kho cá trắm. thêm nữa, ai ai cũng hay tin giống chuối ngự được trồng ở đây. thực ra chỉ chuối ở đây mới được mang danh là chuối tiến vua vì có dấu ấn lịch sử của nó. đất ở đại hoàng còn trồng được loại hồng không hạt ngọt lịm khác hẳn mọi hồng ở nơi khác. các cụ xưa chuyên giã hồng này khi còn hơi xanh cho thật nhuyễn để lấy nhựa dán giấy làm diều. thả diều mới chính là thú chơi độc đáo của làng đại hoàng mà ít người biết tới. hồ hởi cho tôi biết nhiều chuyện về những cuộc thi thả diều hàng năm ở làng.
Lễ thả diều ở đây có những quy định từ xa xưa rất lạ. chiều dài của diều phải thống nhất, khung dài đúng 2,1m. màu giấy diều của từng thôn được quy định, không lòe loẹt diêm dúa, chỉ được chọn một màu, trắng hay hồng, hoặc một nửa đỏ, nửa trắng, có thể diều một mầu kẻ thêm vạch đỏ ở giữa. nghĩa là tối đa chỉ có hai màu. vấn đề là chất lượng làm diều. khi bay lên cao có biết “ngủ say” hay không. nói, hiện các đội chơi diều đã tăng lên tới 25 xóm, nhưng cũng chỉ được chọn màu cánh diều theo bốn mẫu của ban tổ chức. lễ hội thả diều của đại hoàng được tổ chức đúng rằm tháng 5. thường vào gần cuối chiều, khi gió đông nam thổi mạnh, cuộc thi mới bắt đầu. diều được thả tại bãi rộng ngoài cánh đồng. các diều thủ phải căn chiều gió sao cho diều hướng về phía đình, chùa đại hoàng. bởi ở đó ban chấm giải sẽ lấy chậu nước xem diều nào in bóng lâu một chỗ, say một chỗ, im lặng như tờ trên cao chừng một cây số. diều in bóng nước nhỏ như chiếc lá êm như ru. phải nói mọi người nín thở chỉ sợ con diều đụng đậy.
Căn diều ngủ xong, mọi người phải chụm dây lại với nhau, thành một điểm. Ban giám khảo bắt đầu chấm giải. Diều nào ngủ ngon giấc nhất. Diều nào đẹp nhất hay bay cao nhất... Sau khi có điểm, phải cắt dây để cho diều tự bay về trời, rồi mới về nghe kết quả. Việc thả diều như vậy thật độc đáo. Diều được làm rất nhẹ nên dễ bay lên cao theo con gió. Các cụ quan niệm, đó là một năm mùa màng bội thu, phải tạ ơn trời đất. Dâng diều lên trời là ý nguyện của người dân Đại Hoàng bên sông Châu Giang. Mọi người đều hy vọng, một mùa thu hoạch mới đang được ông trời ban phúc lộc đến với mọi nhà, vào vụ cuối năm. Đó là vụ xuân. Đại Hoàng đầy lộc đầy hoa. Chuối thơm, hồng chín, cá ngon. Cách làm diều phẳng, nhẹ bay cao của các tay chơi diều Đại Hoàng thường chiếm giải trong các cuộc thi với xã quanh vùng. Có lần, nghệ nhân làng Đại Hoàng đã chiếm giải “Diều bay cao nhất” trong cuộc thi, nhân Năm du lịch quốc gia đồng bằng sông Hồng (2013). Kiểu diều của làng còn được đánh giá là mẫu diều cổ nhất Việt Nam.
Tôi mê mải lắng nghe nhà văn Từ Thiết Linh say sưa nói chuyện diều của làng mình. Ông kể, nhất là vào những đêm trăng sáng, cánh diều bay lên mang theo bản du ca muốn gửi lên cung hằng, về ước vọng lãng mạn của con người, bay cao bay xa về vũ trụ vô tận. Sự giao hòa giữa tâm hồn với thiên nhiên đã rung lên với cảm giác: “Bay lên nhẹ một kiếp người. Vui đi để nở nụ cười thênh thang”. Tôi nghe ngỡ là đang mơ cùng với cánh diều bay lên. Mảnh đất Đại Hoàng là vậy. Mỗi ngày một tươi mới theo phù sa của hai con sông lớn bồi đắp. Chính nơi ngã ba sông này, vườn cây của Đại Hoàng luôn luôn xanh tốt, xum xuê hoa trái. Bốn mùa đất như trẻ lại. Dòng sông Châu giang ẩn chứa những câu chuyện cổ tích của làng.
Châu Giang mênh mang in bóng diều bay trong đêm trăng sáng. Nhà văn Nam Cao đã từng thể hiện tình cảm về con sông quê hương mình: “Trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo. Trăng rắc bụi trên sông, và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng...” (trích truyện “Chí phèo”). Người dân Đại Hoàng luôn luôn nhớ hình ảnh sông Châu Giang đón vua Trần mỗi khi đi qua về yết kiến Thái Thượng Hoàng tại phủ Thiên Trường. Và, sông Châu Giang chính là chứng nhân cho cuộc chuyển vận của triều Lý khi rời Hoa Lư lên thành Thăng Long lập kinh đô mới. Cho đến nay, dòng nước Châu Giang vẫn dạt dào bản trường ca dời đô lịch sử, mở ra một chân trời mới cho sự phát triển của con rồng cháu tiên nước Việt, trải qua bốn ngàn năm lịch sử vinh quang
Bài và ảnh: Cảnh Linh
Chủ đề liên quan:
lương y trần đức mô