Tâm linh hôm nay

Sự hiểu lầm Vô ngã của Phật giáo

Phải biết rằng học thuyết Vô ngã của Phật giáo đứng trên lập trường nhân tướng của vạn pháp để phán quyết mà không phải đứng trên quả tướng của vạn pháp để luận giải. Xét cho cùng thuyết Vô ngã so với thuyết Nhân quả luân hồi không bao giờ mâu thuẫn với nhau trong lĩnh vực chuyển hoá duyên sinh nơi ba cõi mà còn biện minh cụ thể cho thuyết Nhân quả luân hồi qua sự quyết định của nghiệp báo.

I. Vào đề

Vấn đề Vô ngã của Phật giáo có sự hiểu lầm rất lớn. Một số người tin tưởng thuyết Àtman (linh hồn) của Bà La Môn giáo và thuyết Pudgala (tự ngã) của Độc Tử Bộ (Vatsiputriya) mà cho rằng con người phải có một Tự Ngã (Linh Hồn) thật thể tồn tại bất biến, nghĩa là Tự Ngã đây phải là hình tướng con người và Tự Ngã đó sau khi xả bỏ thân mạng luân hồi đến đâu như lên các cõi Trời để hưởng phước báo cũng vẫn là hình tướng con người, nếu đọa xuống Địa Ngục chịu quả khổ cũng vẫn là hình tướng con người. Tự Ngã theo họ không có hình tướng nào khác thay thế ngoài hình tướng con người. Sự hiểu lầm này được thấy như sau:

Theo quan niệm của Bà La Môn trong mỗi con người có một Àtman (linh hồn) thuộc về Tự Ngã thật thể tồn tại bất diệt, Tự Ngã làm chủ trung tâm, có năng lực chi phối tất cả và sau khi lìa thể xác thì trở về quy thuộc Brahman (Đại Ngã) của vũ trụ. Quan niệm đây được thấy trong các tư tưởng triết học Ấn Độ ghi lại, điển hình như trong quyển “Lược sử Phật giáo Ấn Độ” của Hoà thượng Thích Thanh Kiểm, trang 22 có ghi:

“Àtman thuộc về phương diện tâm lý thì linh hồn bất diệt, nghĩa là Àtman khi lìa thể xác thì linh hồn được quy thuộc về Brahman”.


Bao nhiêu dữ kiện trên cũng nói lên được rằng Sắc Uẩn chính là do đất, nước, gió, lửa cùng nhau hợp thành và nó hoàn toàn không có Tự Ngã tồn tại bất diệt, cho nên xác định rằng Sắc Uẩn là vô ngã.

“2. Thọ Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về cảm thọ. Danh từ cảm thọ dùng để chỉ cho sự hành động của một nguyên nhân, như cảm thọ về phương diện khổ, cảm thọ về phương diện vui và cảm thọ về phương diện không khổ không vui. Còn nguyên nhân tác dụng để cảm thọ, chính là Ý Thức thứ sáu, một yếu tố trong ngũ uẩn… Trường hợp người bị chụp Thu*c mê…không cho Ý Thức sinh hoạt, cho nên họ không có cảm thọ không có cảm thọ khổ vui như thế nào.”

Hơn nữa theo Duy Thức Học, Ý Thức thứ sáu chỉ là thành phần năng lượng tác dụng sinh hoạt nhận thức với danh nghĩa là Kiến Phần mà chính nó không phải bản ngã thật sự và nó khi sinh hoạt cũng phải quan hệ với Kiến Phần năng lượng của năm Tâm Thức trước (Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Thiệt Thức và Thân Thức) để có nhận thức, bằng ngược lại năm Tâm Thức trước nếu không hỗ trợ thì lúc đó Ý Thức thứ sáu hoàn toàn không có nhận thức. Qua nhũng dữ kiện vừa trình bày có thể xác định rằng Thọ Uẩn là vô ngã.

“3. Tưởng Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về ý tưởng. Ý Tưởng là tư tưởng của Tâm Ý và Tâm Ý ở đây tức là chỉ cho Tâm Thức Mạt Na (Manas) thứ bảy. Chữ Mạt Na nghĩa là Ý. Nói cách khác Tâm Thức Mạt na thứ bảy là yếu tố ô nhiễm về tư tưởng, nên gọi là Ý Tưởng. Ý Tưởng thì luôn luôn sinh hoạt những sự việc không có đối tượng, còn Ý Thức thứ sáu thì hiểu biết những sự việc cần có đối tượng.

Ví dụ như những người chưa biết nước Mỹ thì tưởng tượng (ý tưởng) cho rằng người dân nước Mỹ rất sung sướng. Nhưng họ một khi được sống trong nước Mỹ thì ý tưởng xưa kia của họ trở nên sai lầm. Nguyên do họ đã ý thức được sự thật về nước Mỹ.”

Tâm Thức Mạt Na thứ bảy chỉ là thành phần năng lượng tác dụng tưởng tượng để chấp trước và tự nó không phải bản ngã thật sự vì thế có thể xác định rằng Tưởng Uẩn là vô ngã.

“4. Hành Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về hành động tạo tác. Nghiệp Lực chính là yếu tố hành động tạo tác về ô nhiễm, cho nên Nghiệp được dịch là hành động tạo tác….như Nghiệp Sân Hận không có hình tướng và chỉ biết nó qua cử chỉ của con người. Con người hành động hoặc nói năng theo sự thúc đẩy và lôi cuốn của nghiệp sân hận. Hành Uẩn đây là danh từ chỉ cho nghiệp lực.”

Với ý nghĩa trên, Hành Uẩn chính là Nghiệp Lực, tự nó chỉ có năng lực để thúc đẩy hành động nói năng gây nghiệp mà không có hình tướng bản ngã thật sự cho nên cũng xác định rằng Hành Uẩn là vô ngã.

“5. Thức Uẩn: nghĩa là yếu tố ô nhiễm về sự hiểu biết.......Danh từ Thức Uẩn chính thực là chỉ cho Tâm Thức A Lại Da thứ tám. Tâm Thức A Lại Da thứ tám mới đúng nghĩa thuộc loại tâm thức hiểu biết, vì tâm thức này có khả năng xây dựng hệ thống bộ máy vô cùng phức tạp và tinh vi trong cơ thể của tất cả chúng sinh. Điều đó chứng tỏ trình độ hiểu biết của Tâm Thức A Lại Da thứ tám thật vô cùng siêu đẳng và ngoài Tâm Thức đây ra không còn ai có khả năng hơn trong việc kiến tạo hệ thống bộ máy vạn pháp.”

Tâm Thức A Lại Da thứ tám trong con người phải chăng có bản ngã thật sự hay là vô ngã?

Theo Duy Thức Học Tự Ngã của con người tức là Kiến Phần của Thức Thể A Lại Da thứ tám mang tên là Thức Dị Thục thuộc loại tâm thức tác dụng biến hoá không ngừng. Kiến Phần Thức A Lại Da khi tác dụng chun vào nghiệp tướng con người liền biến thành Ngã Tướng của con người trong loài người, chun vào nghiệp tướng súc sinh liền biến thành Ngã Tướng của súc sinh trong cõi bàng sinh, chun vào nghiệp tướng địa ngục liền biến thành Ngã Tướng của chúng sinh trong cõi địa ngục, chun vào nghiệp tướng ngạ quỷ liền biến thành Ngã Tướng của ngạ quỷ trong loài ngạ quỷ..v..v...

Trường hợp này cũng tương tự như năng lượng điện nơi trung tâm biến điện của thành phố, năng lượng điện phân phối dòng điện chạy vào bóng đèn liền biến thành điện của bóng đèn có bổn phận chiếu soi ánh sáng, dòng điện chạy vào quạt máy liền biến thành điện của quạt máy có bổn phận điều khiển quạt máy tác dụng quạt gió, dòng điện chạy vào máy chiếu hình liền biến thành điện chiếu hình có bổn phận đem hình ảnh trong DVD chiếu trên màn ảnh, dòng điện chạy vào máy phát thanh liền biến thành điện phát thanh có bổn phận mang tiếng người này phát ra cho người kia được nghe..v..v...

Đứng trên lĩnh vực bản thể để nhận thức, Thức Thể A Lại Da thứ tám với hình thức là khối năng nượng khổng lồ không có hình tướng (vô ngã tướng) và có mặt khắp không gian mà Duy Thức Học cũng như các kinh luận khác gọi là “Thức Vô Biên Xứ”. Hiện tượng năng lượng của Thức Thể này cũng giống như hiện tượng năng lượng của điện không gian và muốn nhận dạng năng lượng của nó dễ dàng, chúng ta thử đem hiện tượng năng lượng dòng điện nơi trung tâm biến điện của thành phố để thí dụ.

Thức Thể A Lại Da đã là hiện tượng năng lượng và hoàn toàn không có hình tướng Bản Ngã thì Kiến Phần Thức A Lại Da trong con người, trong súc sinh..v..v..... đã được phát sinh từ Thức Thể A Lai Da nói trên cũng chỉ là năng lượng và hoàn toàn không có hình tướng Bản Ngã thật, vì thế có thể xác định rằng Thức Uẩn cũng là vô ngã.

Từ bản chất vô ngã của Ngũ Uẩn đã được giải thích tường tận ở trên cho chúng ta có sự nhận thức cụ thể rằng, con người do ngũ uẩn giả hợp tạo thành thì chính con người hoàn toàn thuộc loại vô ngã.

A. Tự Ngã luân hồi theo luật Nhân Quả:

Theo luật nhân quả luân hồi, chúng ta khi còn sinh tiền tạo những nhân thiện ác nào thì sau khi xả bỏ thân mạng Tự Ngã bị nghiệp lực thiện ác dẫn dắt đến cảnh giới tốt xấu để thọ lấy quả báo khổ vui không bao giờ sai trái, như con người kiếp này tạo nhân phước lành thì luân hồi đến cảnh giới giàu sang sung sướng, thân hình cao sang tốt đẹp, tạo nhân tội ác thì luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân hình xấu xa tàn tật..v..v...

Theo “Phật Học Phổ Thông Khoá II” của Hoà thượng Thích Thiện Hoa, trang 63 giải thích:

“Sau đây là những cảnh giới mà một chúng sinh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà họ đã tạo:

1. Địa Ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại người, phải luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.

2. Ngạ Quỷ: Nhân tạo tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người… mưu sâu kế độc để cứớp đoạt của người, sau khi ch*t, luân hồi làm ngạ quỷ.

3. Súc Sinh: Tạo nhân si mê, sa đoạ theo thất tình, lục dục, tử sắc, tài khí…ch*t rồi, luân hồi làm súc sinh.

4. A Tu La: Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc sái quấy cũng không tránh, vừa cang trực mà cũng vừa độc ác… tính tình hung hăng, nóng nảy… tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A Tu La, gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng nhiều.

5. Loài Người: Tu nhân ngũ giới: Không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối trá, không rượu trà say sưa, thì đời sau trở lại làm người, cao quý hơn muôn vật.

6. Cõi Trời: Bỏ mười điều ác tu chơn thập thiện thì sau khi ch*t, được sinh lên cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng phàm tục, chịu cảnh sinh tử luân hồi.”

Trong sáu cảnh giới đây có ba cảnh giới mà trong kinh Phật thường gọi là Tam Đồ nghĩa là ba đường dữ. Riêng cảnh giới Địa Ngục so sánh với cảnh giới tù tội của trần gian mà chúng ta đang sống thì giống nhau đúng với câu châm ngôn: “Dương gian âm phủ đồng nhất lý”, nghĩa là dương gian và âm phủ giống nhau nguyên lý; đại ý câu này nói rằng, dương gian có trại giam thì cõi âm cũng có Địa Ngục, cả hai nơi nguyên lý hành tội đều không khác nhau.

Theo Kinh Địa Tạng trình bày cảnh giới Địa Ngục là cảnh giới hành hạ chúng sinh trong đó vô vàn đau khổ không thể kể được. Còn cảnh giới A Tu La thứ tư có hai loại chúng sinh: Thiên A Tu La và Nhân A Tu La, cả hai loại này trong các kinh thường kể là hạng hung tàn bạo ngược thường gây chiến tranh chém giết tàn sát không gớm tay cho nên gọi hạng này là A Tu La.

B. Điều kiện biến tướng của Tự Ngã:

Điều kiện khiến cho Tự Ngã biến tướng là do nghiệp lực của Tự Ngã đó quyết định, nghĩa là Tự Ngã biến tướng có khi nhanh trong một sát na, có khi chậm trong bảy ngày, có khi mười bốn ngày, có khi hai mươi mốt ngày, có khi hai mươi tám ngày, có khi ba mươi lăm ngày, có khi bốn mươi hai ngày và cuối cùng là bốn mươi chín ngày.

Nói cách khác Tự Ngã phải trải qua bảy tuần lễ biến tướng để định nghiệp cho kiếp sau và tuần lễ cuối cùng thường gọi là Chung Thất, nguyên vì cõi Trung Giới là cõi trung gian chuyển tiếp để định nghiệp luân hồi vào sáu cõi nói trên và cõi này chỉ giới hạn tối đa trong vòng bốn mươi chín ngày là điều kiện cuối cùng không được kéo dài thời gian hơn.

Định Nghiệp nghĩa là do nghiệp quyết định sự sống ch*t và sự luân hồi của một sinh mạng con người, vì ý nghĩa đó cho nên có chỗ gọi là Duy Nghiệp không sai với nguyên lý. Muốn biết rõ điều kiện biến tướng của Tự Ngã con người như thế nào hãy xem lại quyển “Liễu sinh thoát tử” của dịch giả Hoà thượng Thích Quang Phú, Ấn Quán Sen Trắng tái bản năm 1979 và quyển “ch*t An Lạc & Tái Sinh Hoan Hỷ” của tác giả Đại sư Tulku Thondup Rinpoche, do HT.Thích Như Điển và TT.Thích Nguyên Tạng dịch ra Việt ngữ, trong hai tác phẩm này trình bày tường tận hơn nguyên lý chuyển tiếp của Tự Ngã trong Trung Giới. Tại sao sự biến tướng của Tự Ngã lại do nghiệp lực quyến định?

Theo Duy Thức Học có bài kệ nói lên con người sau khi ch*t Thần Thức (Kiến Phần Thức A Lại Da) đi đầu thai vào đâu, bài kệ đó như sau:

“Đảnh Thánh, Nhãn sinh Thiên,

“Nhân tâm, Ngạ Quỷ phúc (bụng),

“Bàng Sinh (súc sinh) tất cá ly,

“Địa Ngục cước tâm xuất.”

Giải thích:

1. Đảnh Thánh: Đảnh là chỉ cho đỉnh đầu của con người, Thánh là chỉ cho Phật; câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra trên cửa đảnh đầu là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ thành Phật (Thánh).

2. Nhãn sinh Thiên: Nhãn là con mắt, Thiên là cõi Trời; câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra cửa đôi mắt là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ sinh lên các cõi Trời.

3. Nhân Tâm: Nhân là con người, Tâm là quả tim; câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra cửa quả tim nơi ngực là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ sinh trở lại làm người.

4. Ngạ Quỷ Phúc: Phúc là bụng, tức là chỉ cho huyệt Thần Khuyết (lỗ rốn); câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng, Thần Thức của họ xuất ra cửa huyệt Thần Khuyết là báo hiệu ngưới đó kiếp sau sẽ sinh vào cõi Ngạ Quỷ.

5. Bàng Sinh: là chỉ cho súc sinh, Tất là đầu gối, Cá là cái, Ly là lìa khỏi; Tất Cá Ly, nghĩa là lìa khỏi đầu gối; câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra nơi hai đầu gối là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ sinh vào cõi Súc Sinh.

6. Địa Ngục Cước Tâm Xuất: Cước là gót chân, Cước Tâm Xuất nghĩa là ra khỏi nơi lòng bàn chân; câu này có nghĩa là con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ xuất ra nơi hai đầu gối là báo hiệu người đó kiếp sau sẽ sinh vào chốn Địa Ngục.

Để làm sáng tỏ vấn đề sáu câu kệ nói trên, chúng ta thử quán chiếu hành động của một con người để khảo sát. Thí dụ anh A trong kiếp này suốt cuộc đời làm nghề sát sinh để sống, mỗi lần anh giết một con bò là anh gây một nhân hận thù nghiệp sát với con bò và trong lúc giết hình bóng con bò đã được anh chụp lấy vào tâm của anh, đồng thời hình bóng của anh cũng được con bò chụp lấy vào tâm của nó. Anh giết bao nhiêu con bò chính là đã gây bao nhiêu nhân hận thù nghiệp sát và chụp lấy bấy nhiêu hình bóng con bò vào tâm của anh. Anh chẳng những giết bò mà còn giết cả heo và cả chó..v..v… nghĩa là anh gây không biết bao nhiêu nhân hận thù nghiệp sát, chẳng những với bầy bò mà còn với bầy heo, với bầy chó..v..v… và anh cũng chụp lấy không biết bao nhiêu hình bóng của chúng vào tâm của anh, đó là những nguyên nhân nghiệp tướng để kiếp sau anh chun vào trả quả.

Trước hết anh sau khi xả bỏ thân mạng của kiếp này, trong tuần lễ đầu tiên chuyển tiếp, thế giới súc sinh bắt đầu mở cửa nếu như thần Thức xuất ra từ hai đầu gối nơi thân xác của anh và ngay trong lúc đó các nghiệp lực hận thù của các súc sianh như bò heo chó..v..v…bmà anh gây nhân lúc còn sinh tiền, thi đua nhau lôi kéo đòi nợ. Lúc bấy giờ Thần Thức Tự Ngã con người của anh bị biến tướng, có khi biến thành hình tướng con bò này, có khi biến thành hình tướng con bò kia, có khi biến thành hình tướng con heo này, hình tướng con heo kia, hình tướng con chó này, hình tướng con chó kia..v..v… để tìm duyên đầu thai trả quả.

Bảy tuần lễ trong Trung Giới mà Thần Thức Tự Ngã của anh sở dĩ phải trải qua bảy lần biến tướng đều do các nghiệp sát của các thú vật tranh giành đòi nợ, thường gọi là bảy Toà Án xét tội, Tuần thứ bảy (ngày thứ 49) là thời gian giới hạn của Trung Giới, cũng gọi thời gian Toà Án cuối cùng định tội (định Nghiệp) để chấp nhận nghiệp nào thắng cuộc, thí dụ như nghiệp bò thắng cuộc thì ngay lúc đó Thần Thức Tự Ngã của anh A thay đổi hình tướng liền chun vào nghiệp tướng con bò trắng để trở thành Tự Ngã của hình tướng bò con kiếp sau, còn các nghiệp khác của anh phải chờ đợi kiếp sau hoặc nhiều kiếp sau nữa.

Cách thức thay đổi hình tướng Tự Ngã con người để đi vào các cõi như Thiên, Nhân, A Tu La, Địa Ngục và Ngạ Quỷ sau khi xả bỏ thân mạng cũng đều giống nhau như cách thức thay đổi hình tướng Tự Ngã để đi vào cõi súc sinh, nghĩa là cũng phải trải qua thời gian bảy Tuần lễ (49 ngày) cứu xét tội phước để định nghiệp. Ngoại trừ ba trường hợp sau đây Thần Thức Tự Ngã con người trực tiếp đi đầu thai thẳng vào sáu cõi nói trên mà không qua trung gian bảy tuần lễ (49 ngày) định nghiệp:

1. Người nào đó lúc sinh tiền suốt đời chuyên tu duy nhất là đạo giải thoát làm nhân tố trên hết, ngoài ra không gây tạo nhiều nghiệp thiện ác nào khác của thế gian, Thần Thức Tự Ngã của họ sau khi xả bỏ thân mạng liền xuất ra trên cửa đỉnh đầu là báo hiệu kiếp sau của họ đi thẳng vào cõi Niết Bàn hay Tây Phương Cực Lạc mà không qua trung gian bảy tuần lễ xét định tội phước. Mặc dù được vãng sinh thành Phật, nhưng Tự Ngã con người của họ cũng phải thay đổi hình tướng thế gian để trở thành hình tướng Chân Ngã Pháp Thân của chư Phật. Hình tướng Chân Ngã Pháp Thân của chư Phật hoàn toàn không giống hình tướng Tự Ngã của con người. Hiện tượng này được thấy trong câu chuyện của Ngài Mục Kiền Liên mà ai đã đọc qua cũng đều biết.

Ngài Mục Kiền Liên là một vị trong mười đệ tử lớn của đức Phật Thích Ca; ngài có thần thông bậc nhất, một hôm ngài bay đến cõi Phật Thế Tự Tại Vương và ghé vào đó để nghe Phật thuyết pháp; các vị Bồ Tát của Phật Thế Tự Tại Vương đều gọi ngài là con Đại Trùng (con trùng to lớn). Qua câu chuyện trên cho biết Tự Ngã con người của ngài Mục Kiền Liên so với hình tướng Pháp Thân của đức Phật Thế Tự Tại Vương và đại chúng của Phật hoàn toàn không giống nhau. Chúng ta muốn sinh về cõi Phật này để an trụ tu tập thì nhất định phải thay đổi hình tướng Tự Ngã con người của chính mình mới hoà nhập được đại chúng trong cõi đó.

2. Lúc sinh tiền người nào đó suốt cuộc đời chuyên gây tạo duy nhất một thứ nghiệp cực ác như tội ngũ nghịch thập ác, ngoài ra không gây tạo nhiều nghiệp thiện ác nào khác của thế gian, Thần Thức của họ sau khi xả bỏ thân mạng liền xuất ra nơi cửa hai lòng bàn chân là báo hiệu kiếp sau đi thẳng vào Địa Ngục mà không qua trung gian bảy tuần lễ xét định tội phước, nhưng họ cũng phải thay đổi Tự Ngã hình tướng con người thế gian để trở thành Tự Ngã hình tướng chúng sinh của cõi đó.

3. Phương thức tái sinh của Tây Tạng là phương thức do Ý Thức của con người chỉ định chỗ tái sinh và Thần Thức của họ sau khi xả bỏ thân mạng liền đi thẳng đến chỗ quy định tái sinh cũng là cõi người, không qua trung gian bảy tuần lễ xét định tội phước và cũng không biến đổi Tự Ngã con người.

Có kẻ bảo rằng con người sau khi xả bỏ thân mạng kiếp này, Thần Thức của họ chỉ đi đầu thai thẳng không qua trung gian bảy tuần lễ để định nghiệp và cũng không thay đổi Tự Ngã. Nếu quả đúng như thế thì luật nhân quả và luân hồi không còn giá trị nữa, nghĩa là họ cứ gây nghiệp sát hại sinh mạng chúng sinh mà không sợ nhân quả và cứ làm tội ác mà không sợ luân hồi, nguyên vì nhân quả và luân hồi không bao giờ ảnh hưởng đến hành động của họ. Quan niệm này vô cùng sai lầm đối với luật nhân quả luân hồi của Phật giáo.

V. Tóm lại

Tổng hợp những điều đã trình bày qua ở trên cho ta nhận thức, học thuyết vô ngã của Phật Giáo chủ trrương đầu tiên là một phán quyến thật tại của đức Phật Thích Ca nhằm đánh giá cụ thể sinh mạng con người cũng như sinh mạng các hữu tình khác, tất cả đều mang tánh chất giả hợp của ngũ uẩn. Từ học thuyết vô ngã đó dùng làm nền tảng căn bản, các trào lưu tư tưởng Phật giáo sau này cùng nhau thi đua phát triển, khai thác tận nguồn nguyên lý vạn pháp để rồi đi đến kết luận “Ngã Pháp Câu Không Luận” của Đại thừa.

Phải biết rằng Học thuyết Vô Ngã của Phật giáo đứng trên lập trường nhân tướng của vạn pháp để phán quyết mà không phải đứng trên quả tướng của vạn pháp để luận giải. Xét cho cùng thuyết Vô Ngã so với thuyết Nhân Quả Luân Hồi không bao giờ mâu thuẫn với nhau trong lĩnh vực chuyển hoá duyên sinh nơi ba cõi mà còn biện minh cụ thể cho thuyết Nhân Quả Luân Hồi qua sự quyết định của Nghiệp Báo.

Có thể nói tất cả Tâm Thức dù cho dưới bất cứ hình thức nào, như sinh vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Nhơn, Thiên, A Tu La luôn luôn vẫn ở trạng thái năng lượng tuyệt đối không có bản ngã cố định nhất là Kiến Phần Thức A Lại Da thứ tám. Kiến Phần Thức này sở dĩ được mang danh Tự Ngã chính là do Kiến Phần Thức Mạt Na thứ bảy dán lên nhãn hiệu danh xưng qua nghiệp tướng của mỗi loại chúng sinh, vì thế nghiệp tướng luôn luôn thay đổi hình tướng theo nghiệp quả thì Tự Ngã cũng thay đổi theo nhu cầu của nghiệp nhân.

Tự Ngã dù cho có biến tướng để sinh vào thế giới nào cũng vẫn là ở tư thế vô ký (trung tính) trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch, thiện ác mà chính nó không có vấn đề ký ức tốt xấu hay cảm thọ khổ lạc. Chỉ có Ý Thức thứ sáu sinh sau đẻ muộn mới có vấn đề ký ức tốt xấu và cảm thọ quả báo khổ vui theo nhân quả nghiệp báo mà thôi. Đây là những bằng chứng cụ thể được lý giải tận tường để biện chứng thuyết Vô Ngã của Phật giáo xin tặng các đọc giả bốn phương làm món quà gieo duyên trao tặng.


Thích Thắng Hoan
-

Sách tham khảo:

- Vô Ngã và Luân Hồi của giáo sư Hoàng Tuấn Oai, Việt dịch Thích Hạnh Bình.

- ch*t An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ của Đại sư Tulku Thondrup Rinpoche, Việt dịch: HT.Thích Như Điển và TT.Thích Nguyên Tạng.

- Liễu Sanh Thoát Tử của dịch giả HT.Thích Quang Phú.

- Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của HT.Thích Thanh Kiểm.

- Kinh A Hàm

- Phật Học Phổ Thông Khoá II của HT.Thích Thiện Hoa.

- Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức tác giả Thích Thắng Hoan.

- Khảo Nghiệm Duy Thức Học quyển I tác giả Thích Tháng Hoan.

- Kinh Địa Tạng

- Lịch Sử Triết Học Ấn Độ của HT.Thích Mãn Giác

- Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ tác giả Wille Durant, gịch giả Nguyễn Hiến Lê.

Thích Thắng Hoan

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/su-hieu-lam-vo-nga-cua-phat-giao-d25903.html)

Chủ đề liên quan:

hiểu lầm phật giáo vô ngã

Tin cùng nội dung

  • (MangYTe) - Quan hệ T*nh d*c khi mang thai là đề tài khá “hot” của không ít cặp vợ chồng. Tuy nhiên, có một vài hiểu lầm mà mẹ bầu thường gặp phải khiến “chuyện ấy” không được như ý. Mẹ bầu hãy theo dõi xem mình từng có những suy nghĩ này chưa nhé!
  • Có rất nhiều việc bạn có thể làm để giảm nguy cơ ung thư da. Nhưng có nhiều người đã có những hiểu biết sai lầm về ung thư da dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh.
  • Có rất nhiều điều hiểu lầm về trầm cảm sau sinh. Dưới đây là những gì mà những phụ nữ “mới lên chức” cần biết.
  • Có thể bạn đã nghe thấy rằng thực phẩm biến đổi gen (GMO) khiến chúng ta phải dùng nhiều Thu*c trừ sâu hơn hoặc có những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Tuy nhiên vẫn có những hiểu nhầm về thực phẩm biến đổi gen.
  • Đậu nành là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng có chứa tất cả các axit amin cần thiết cho cơ thể. Ngoài ra, cùng với nhiều khoáng chất và vitamin, các thực phẩm từ đậu nành cũng chứa thành phần hóa chất thực vật có rất nhiều lợi ích với sức khỏe.
  • Dưới đây là những hiểu lầm phổ biến và sự thật về cậu nhỏ có thể khiến bạn ngạc nhiên.
  • Liệu bạn có thể mặc bệnh lây qua đường T*nh d*c qua lỗ tiểu? Hay từ bồn tắm? Thật có rất nhiều hiểu lầm tai hại mà chúng ta cần nắm rõ để biết cách chăm sóc sức khỏe và phòng tránh các căn bệnh truyền nhiễm qua đường T*nh d*c cho mình.
  • Chế độ ăn chay là chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, vv…), có hoặc không ăn những sản phẩm từ trứng, sữa hoặc mật ong, hoàn toàn không sử dụng các loại thịt (thịt đỏ, thịt gia cầm và hải sản) hoặc kiêng ăn các thực phẩm có được từ quá trình giết mổ. Dưới đây là một số quan niệm sai lầm phổ biến về chế độ ăn chay:
  • Sử dụng siro ho hay giơ cao chân sau khi quan hệ có thể làm tăng khả năng thụ thai... tất cả đều là những quan niệm sai lầm.
  • Thời gian vừa qua, không ít những vụ gia đình, thân nhân người bệnh hành hung y, bác sĩ, nhân viên y tế, hoặc nổi trận lôi đình với những người mặc áo blu trắng bắt nguồn từ những hiểu lầm.