Liệu pháp oxy là cung cấp oxy cho người bệnh. Mục đích của liệu pháp oxy là phòng hoặc giảm tình trạng thiếu oxy. Bất cứ người bệnh nào mà sự oxy hoá mô không đủ đều có thể nhận thêm oxy từ việc cung cấp oxy có kiểm soát.
Liệu pháp oxy được chỉ định bởi bác sĩ, là người xác định nồng độ đặc hiệu, phương pháp và thể tích lít/ phút. Nhưng khi việc cung cấp oxy là biện pháp cấp cứu thì người điều dưỡng có thể tự bắt đầu liệu pháp.
Liệu pháp oxy chỉ là một biện pháp hỗ trợ và chỉ nên được sử dụng khi có chỉ định. Như bất cứ loại Thu*c nào, liều hoặc nồng độ oxy nên được theo dõi liên tục. Người điều dưỡng cần kiểm tra y lệnh của bác sĩ hằng ngày để xác định nồng độ oxy được chỉ định và cần áp dụng các nguyên tắc kiểm tra 5 đúng như trong việc cho người bệnh uống Thu*c.
Liệu pháp oxy được chỉ định cho các người bệnh có biểu hiện thiếu oxy (nồng độ oxy thấp hoặc độ bão hòa oxyhemoglobin trong máu động mạch thấp).
Hạn chế hoạt động của lồng ngực: liệt cơ hô hấp do tổn thương thần kinh, vẹo cột sống, chấn thương lồng ngực gây ra gãy xương sườn, tràn khí, tràn dịch màng phổi.
Suy giảm chức năng của hệ thần kinh tham gia vào quá trình hô hấp: viêm não, chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não.
Các bệnh gây cản trở sự khuếch tán của khí trong phổi: viêm phổi, phù phổi cấp, khí phế thũng, viêm phế quản phổi.
Các bệnh làm rối loạn quá trình vận chuyển oxy máu và tuần hoàn: thiếu máu, suy tim, bệnh tim bẩm sinh.
Triệu chứng của thiếu oxy tùy thuộc vào tuổi, sức khoẻ, tình trạng bệnh lý hiện tại và bệnh mạn tính của người bệnh. Dấu hiệu của thiếu oxy gồm có:
Sử dụng đúng liều lượng, đúng phương pháp: sử dụng liều lượng và dùng phương pháp thích hợp theo chỉ định của bác sĩ để đảm bảo cung cấp đủ oxy cho người bệnh. Như bất kỳ loại Thu*c nào, oxy không phải hoàn toàn vô hại cho người bệnh. Nồng độ oxy lớn hơn 50% có thể dẫn đến ngộ độc oxy. Nên sử dụng nồng độ oxy thấp nhất cần thiết để đạt được sự bão hoà oxy máu động mạch mong muốn.
Phòng tránh nhiễm khuẩn: oxy là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển nhanh, vì vậy cần đảm bảo khâu vô khuẩn trong quá trình cung cấp oxy.
Phòng tránh khô đường hô hấp: trong quá trình cung cấp oxy cho người bệnh cần làm ẩm oxy trước khi đi vào, cho người bệnh uống thêm nước nếu có thể.
Nguyên tắc vể an toàn: cần phải bảo đảm an toàn trong khi sử dụng liệu pháp oxy, vì nó dễ gây ra tình trạng cháy nổ.
Oxy được cung cấp bằng hai hệ thống: hệ thống vận chuyển được như bình đựng, túi đựng và hệ thống kín ở trong tường.
Oxy được cung cấp từ bình đựng hoặc hệ thống tường là oxy khô. Khí khô này làm mất nước của màng nhày hô hấp, vì vậy cần làm ẩm oxy trước khi cho vào đường hô hấp của người bệnh, đặc biệt khi thể tích thở vào trên 2 lít/ phút.
Dụng cụ cung cấp oxy bao gồm ông thông mũi, canun mũi, mặt nạ, lều oxy, ống chữ T hoặc vòng cổ dùng trong thông khí nhân tạo (nội khí quản hay mở thông khí khí quản).
Ống thông mũi là ống mềm dẻo và trơn láng, dài khoảng 40 cm. Đầu xa của ống có nhiều lỗ hở nhỏ để oxy có thể thoát ra. Tốc độ bình thường của dòng oxy qua ống mũi là từ 1 đến 6 lít/ phút. Fi02 từ 24% đến 40%. ống thông mũi có thuận lợi là sẵn có cho bất kỳ người bệnh ở bất cứ độ tuổi nào, rẻ tiền và dùng một lần. Tuy nhiên ống thông mũi có hạn chế trong sử dụng vì gây ra tình trạng khó chịu cho người bệnh khi dùng, có thể dính vào hốc mũi và làm khô miệng hầu. Liệu pháp này còn tốn nhiều thời gian.
Bao gồm một cái ống dài với hai nhánh 0,6 - 1,3cm cong mà cố định vào trong hai lỗ mũi. Mỗi bên của ống nối với ống oxy cung cấp. Canun thường được giữ cố định quanh đầu của người bệnh hoặc dưới cằm. Trừ khi đường mũi bị nghẽn còn không thì canun sẽ cung cấp đủ oxy, ngay cả đối với những người mà thở chủ yếu bằng miệng. Nó cung cấp nồng độ oxy tương đối thấp (24 - 44%) ở thể tích 2-6 lít/ phút. Khi thể tích oxy trên 6 lít/ phút, người bệnh có khuynh hướng nuốt không khí và niêm mạc hầu dễ bị kích thích. Ngoài ra hiệu số oxy thở vào không tăng.
Hầu hết mặt nạ được làm bằng plastic dẻo mà có thể gắn vào mặt. Chúng được giữ ở đầu của người bệnh với những dây đàn hồi. Một số có kẹp bằng kim loại và có thế được bẻ cong qua cầu mũi để cố định chặt hơn. Có vài lỗ ỏ bên của mặt nạ để cho phép sự thoát ra của C02. Để tránh cho ngưòi bệnh hít C02 vào lại khi mang mặt nạ, liều oxy tối thiểu là 5 lít/ phút. Một số mặt nạ có túi chứa, nó cung cấp nồng độ oxy cao hơn cho người bệnh. Phần còn lại của khí thở sẽ được đi vào túi.
Mặt nạ đơn giản cung cấp nồng độ oxy từ 40 - 60% tương ứng thể tích 5 – 8l/phút. Mặt nạ được chống chỉ định cho những người bệnh giữ C02 bởi tình trạng này có thể xấu thêm.
Mặt nạ thở vào lại một phần cung cấp oxy 40 - 60% vối thể tích 6 - 10lít/phút. Túi chứa oxy được gắn vào cho phép người bệnh thở vào khoảng 1/3 lượng khí thở ra kết hợp với oxy. Túi thở vào lại một phần không phải làm xẹp hoàn toàn trong quá trình thở vào để tránh tạo khí C02. Nếu điều này xảy ra, thể tích oxy lít/ phút cần được tăng.
Mặt nạ không thở vào lại cung cấp nồng độ oxy cao nhất, sử dụng túi không thở vào lại, người bệnh chỉ thở nguồn khí từ túi. Van một chiều trên mặt nạ và giữa túi dự trữ và mặt nạ tránh không khí phòng và không khí thở ra của người bệnh đi vào túi. Đe tránh sự tích tụ C02, túi này không hoàn toàn dẹt trong kỳ thở vào. Nếu nó như vậy thì người điều dưỡng nên tăng thể tích khí thở vào.
Mặt nạ Venturi được sử dụng khi cần cung cấp cho người bệnh lượng oxy có nồng độ thấp và chính xác. Mặt nạ này có thể cung cấp oxy cho người bệnh với nồng độ thay đổi từ 24 - 50%. Nồng độ oxy được ghi rõ trong mặt nạ. Nếu tăng thể tích oxy cao hơn nồng độ oxy đặc hiệu sẽ không tăng nồng độ được cung cấp cho người bệnh.
Lều có thể dùng để thay thế mặt nạ khi người bệnh không thể dùng mặt nạ được. Khi dùng lều để cung cấp oxy, nồng độ oxy thay đổi vì vậy, nó thường được sử dụng để nối vối hệ thống Venturi. Lều cung cấp nồng độ oxy khác nhau (ví dụ: 30 - 50% oxy ở thể tích 4 - 8 lít/phút).
Đối vối thông khí nhân tạo, oxy cung cấp cần phải luôn luôn được làm ẩm vì không đi qua đường thở thông thường là miệng và mũi. Hai dụng cụ được sử dụng đế làm cung cấp oxy ẩm là ống chữ T hoặc vòng cổ trong mở thông khí quản.
Ống chữ T là một thiết bị hình chữ T có một nhánh nội nguồn cung cấp oxy với đường thông khí nhân tạo (nội khí quản hoặc mở thông khí quản).
Vòng cổ trong mở thông khí quản là một loại thiết bị có mặt cong với quai có thể điều chỉnh cho phù hợp với cổ người bệnh. Có hai lỗ: một lỗ luôn luôn mở ở phía người bệnh để thoát khí và một lỗ nối với nguồn oxy.
Đo chiều dài ống thông mũi: đo khoảng cách từ cánh mũi của người bệnh đến dái tai và làm dấu điểm mốc đó.
Đặt ống thông nhẹ nhàng vào trong một lỗ mũi, luồn ống dọc theo sàn của hốc mũi, ngừng tại điểm đã làm dấu trưốc đó.
Kiểm tra hốc miệng bằng đè lưỡi và đèn. Đầu của ống có thể nhìn thấy được bên lưỡi gà, rút ống lui khoảng 0,6 cm để không nhìn thấy ống nữa.
Cố định ống và mũi của người bệnh, cố định ống nối vào áo của người bệnh hoặc giường, không làm căng ống.
Cố định mặt nạ vòng quanh mặt của người bệnh. Mặt nạ nên sát theo mặt người bệnh để ít oxy vào mắt, hoặc thoát ra ngoài quanh cằm và má.
Cố định mặt nạ bằng dây đàn hồi quanh đầu của người bệnh đủ chặt nhưng người bệnh phải cảm giác đễ chịu.
Đánh giá lỗ mũi của người bệnh có nút nhày và kích thích tại chỗ không. Đặt chất nhờn (hoà tan trong nước) khi cần thiết để làm giảm đau.