Tâm linh hôm nay

Ý nghĩa pháp danh

Theo truyền thống Phật giáo Việt Nam, mỗi khi một tín đồ phát tâm quy yTam Bảo để chính thức trở thành một đệ tử của Đức Phật, vị Bổn Sư sẽ chomột tên mới gồm hai (2) chữ gọi là pháp danh sau khi thọ giới.

  • Có phải, cứ đăng ký Quy Y là được?
  • Quy Y Tam Bảo: Thực hiện 4 nguyện lớn, là những nguyện nào?
Pháp danh của người phật tử tại gia không có chữ Thích đi trước, mà chỉ có những chữ như Cư sĩ, Đạo hữu, Tín nữ, Phật tử…ở phía trước mà thôi. Ngoài ra tín đồ Phật giáo cũng được đặt pháp danh sau khi qua đời để xử dụng trong lúc cung hành tang lễ nếu như khi còn tại thế chưa quy y.

Một người sau khi quy y Tam bảo sẽ chính thức trở thành người phật tử, theo đó sẽ có một pháp danh cho riêng mình do thầy bổn sư 5 giới truyền trao

Pháp danh gồm hai (2) chữ: Chữ đầu chỉ sự liên hệ đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó. Chữ thứ hai là do vị Bổn Sư chọn lựa dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh) để tạo thành một chữ kép mang ý nghĩa hay, đẹp và có tính khuyến tu. Ví dụ: Người đệ tử tên Mỹ, quy y với vị Bổn Sư có Pháp danh chữ trước là TÂM ( thượng Tâm) sẽ có Pháp danh chữ trước là Nguyên; chữ sau có thể là Mãn. Tức là Nguyên Mãn: chữ Nguyên theo thứ tự thế hệ trong bài kệ của Ngài Tổ Liễu Quán, còn chữ Mãn là theo tên của người đệ tử là Mỹ, tạo thành một chữ kép có nghĩa tu hành được tốt đẹp (Mỹ Mãn). Đôi khi tên người đệ tử đã mang sẵn chữ có ý nghĩa đạo và ý nghĩa phù hợp với chữ trong bài kệ, vị Bổn sư để nguyên và không cần thay đổi, hoặc tên không thể tìm được chữ ghép thì có thể lấy chữ trong tên của các vị La Hán, Bồ Tát v.v… để tạo thành Pháp danh. Các Ngài bổn Sư trước đây thường lấy chữ trong cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho đệ tử.


Phật giáo Việt Nam hiện nay đều xuất từ Thiền Tông và đa số thuộc dòng Tào Động (miền Bắc), Lâm Tế (miền Trung và miền Nam). Các Long vị của các Ngài Tổ đều ghi Lâm Tế, nhưng pháp tu lại kiêm cả Tịnh và Mật Tông. Ví dụ, ở Huế hiện ít nhất cũng đang truyền thừa theo ba (3) bài kệ của từng vị Tổ môn phái xuất kệ nhưng đều thuộc dòng Lâm Tế.


Bài kệ của Ngài Thiền Sư Vạn Phong Thời Uỷ ( Môn phái Hải Đức, Huế. Môn phái Thập Tháp Di Đà, Bình Định, đều dùng bài kệ này:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Tổ Đạo Giới Định Tông 祖導戒定宗

Phương Quảng Chứng Viên Thông 方廣證圓通

Hạnh Siêu Minh Thật Tế 行超明寔際

Liễu Đạt Ngộ Chơn Không 了達悟真空

Như Nhật Quang Thường Chiếu 如日光常照

Phổ Châu Lợi Ích Đồng 普周利人天

Tín Hương Sanh Phước Huệ 信香生福慧

Tương Kế Chấn Từ Phong 相繼振慈風


Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở khoảng chữ CHƠN.

Đa số các chùa khác thuộc môn phái Ngài Liễu Quán và dùng bài kệ sau:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Thật Tế Đại Đạo 實際大導

Tánh Hải Thanh Trừng 性海清澄

Tâm Nguyên Quảng Nhuận 心源廣潤

Đức Bổn Từ Phong 德本慈風

Giới Định Phước Huệ 戒定福慧

Thể Dụng Viên Thông 體用圓通

Vĩnh Siêu Trí Quả 永超智果

Mật Khế Thành Công 密契成功

Truyền Trì Diệu Lý 傳持妙里

Diễn Sướng Chánh Tông 演暢正宗

Hạnh Giải Tương Ưng 行解相應

Đạt Ngộ Chơn Không 達悟真空


Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ TRỪNG.


Hai dòng nầy phát triển rất mạnh ở miền Trung và miền Nam. Ngoài ra ở Huế có môn phái chùa Quốc Ân do Tổ Nguyên Thiều lập lại dùng bài kệ của Ngài Đạo Mân đời thứ 31 như sau:


Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên 導本原成佛祖先

Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên 明如紅日麗中天

Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ 靈源廣潤慈風溥

Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền 照世真燈萬古懸


Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ LỆ.


Riêng ở Quảng Nam Đà Nẳng có môn phái chùa Chúc Thánh thuộc Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ khác như sau:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Minh Thật Pháp Toàn Chương 明寔法全章

Ấn Chơn Như Thị Đồng 印真如是同

Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu 祝聖壽天久

Kỳ Quốc Tộ Địa Trường 祈國祚地長

Đắc Chánh Luật Vi Tuyên 得正律為宣

Tổ Đạo Hạnh Giải Thông 祖導行解通

Giác Hoa Bồ Đề Thọ 覺花菩提樹

Sung Mãn Nhơn Thiên Trung 充滿人天中


Ngoài ra còn những bài kệ khác như của Ngài Trí Thắng Bích Dung đời thứ 41 biệt xuất như sau:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Trí Huệ Thanh Tịnh 智慧清淨

Đạo Đức Viên Minh 道德圓明

Chơn Như Tánh hải 真如性海

Tịch Chiếu Phổ Thông 寂照普通

Tâm Nguyên Quảng Tục 心源廣續

Bổn Giác Xương Long 本覺昌隆

Năng Nhơn Thánh Quả 能仁聖果

Thường Diễn Khoan Hoằng 常演寬宏

Duy Truyền Pháp ấn 惟傳法印

Chánh Ngộ Hội Dung 正悟會容

Không Trì Giới Hạnh 空持戒行

Vĩnh Kế Tổ Tông 永繼祖宗


Ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc cũng biệt xuất bài kệ:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Minh Chơn Như bảo Hải 明真如寶海

Kim Tường Phổ Chiếu Thông 金祥普照通

Chí Đạo Thành Chánh Quả 至導成正果

Giác Ngộ Chứng Chơn Thường 覺悟證真空


Ngài Tri Giáo Nhất Cú tông Tào Động cũng xuất bài kệ:

Âm Hán Việt -> Chữ Hán

Tịnh Trí Viên Thông Tông Từ Tánh 淨智圓通宗慈性

Khoan Giác Đạo Sanh Thị Chánh Tâm 寬覺道生是正心

Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ 密行仁德稱良慧

Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường 燈普照宏法永長


Ba bài kệ sau cùng, người viết chưa đủ duyên để được gặp quý Thầy thuộc các môn phái đó nên không biết những chi tiết khác.

Ngoài ra trong thời gian gần đây, về phía nữ Phật tử cũng có một số được đặt pháp danh mang chữ Diệu, Minh như Phật giáo Nhật Bản, Trung Quốc v.v… Trên đây là những điều mà cá nhân người viết đã may mắn được sự chỉ dẫn và giải thích của Quý Thầy trong thời gian học hỏi và phụ giúp về nghi Lễ.

Ngoài ra, trong nghi lễ pháp danh chỉ được dùng trong Sớ để tác bạch lên chư Phật và Bồ Tát mà thôi, còn các việc khác bậc xuất gia đã có Pháp tự, Pháp hiệu; tại gia có tự, hiệu…


TIN LIÊN QUAN

Nguồn tin từ Phổ Quang

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/y-nghia-phap-danh-d11082.html)
Từ khóa: ý nghĩa

Chủ đề liên quan:

ý nghĩa

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY