Mê Tông Chi Quốc - Bão nhiệt đới Buddha - Mê Tông Chi Quốc

Mê Tông Chi Quốc

Tác giả : Chưa rõ
Chương 11 : Mê Tông Chi Quốc - Bão nhiệt đới Buddha

Hồi 1 :

Xẻ bụng Trong rừng già núi sâu ở Miến Điện, mãng xà đen và rắn độc là loài sinh vật vô cùng phổ biến, nhưng con ô xà náu mình trên tán cây um tùm âm u này không ngờ lại có khả năng hút một thân thể to béo, vạm vỡ như Xuyên Sơn Giáp lên giữa không trung trong lúc mở miệng hít thở.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, trong lòng lạnh buốt như bị nước đá dội vào, kinh hoàng thất đảm.

Hai người lại chẳng thể ra tay ứng cứu vì trên người chẳng có súng, lại không thể dùng dao săn vì khoảng cách quá xa.

Hai người chỉ biết trừng trừng nhìn con mãng xà đen, nó há miệng hút được Xuyên Sơn Giáp, thì liền thò đầu xuống nuốt tất cả vào bụng, cơ thể con mãng xà phút chốc lồi lên hình dạng một con người.

Tuy rằng Xuyên Sơn Giáp có mang theo súng xung phong, nhưng sự việc diễn ra quá đột ngột, gã chẳng kịp phòng bị gì, đợi khi tỉnh táo lại thì đã bị cuốn vào một cơn lốc tanh tưởi.

Có câu “Lực bắt nguồn từ đất”, giờ đây hai chân của Xuyên Sơn Giáp lại rời khỏi mặt đất, cả cơ thể chơi vơi giữa không trung, trên đầu dưới chân, chẳng chỗ nào có thể giãy giụa phản kháng nổi.

Thế là gã lập tức bị nuốt sống vào bụng con mãng xà.

Xuyên Sơn Giáp là tên đạo tặc đào mồ trộm mả chuyên nghiệp.

Thường xuyên phải làm những công việc liều mạng giúp gã luyện thành một thân tuyệt kỹ hiếm có, thủ thuật cũng không phải hạng vừa.

Gã bị con mãng xà khổng lồ nuốt chửng vào bụng, chỉ cảm thấy một mùi tanh tưởi ghê tởm xộc vào tận óc, cả cơ thể dường như bị rơi vào nồi canh sôi sùng sục, toàn thân bỏng rát không thể chịu đựng nổi.

May mà thần trí vẫn chưa bị nhiễu loạn, đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã vươn cánh tay ngắn ngủn trong phút chốc thi triển công phu, móc cây giáo mỏ vịt luôn mang theo bên người, cắm phật lưỡi dao sắc lẻm xuống phía bên dưới, rạch mạnh một đường.

Mũi dao rạch bụng con mãng xà nghe “xoạt” một tiếng như rạch vào tấm da mủn nát.

Thấy vậy, gã lại cố sức rạch thêm vài nhát nữa, bụng con ô xà bị xẻ dọc từ trong ra ngoài.

Con mãng xà khổng lồ Miến Điện lúc đầu còn chưa phát giác bụng mình bị rạch lòi cả ruột gan, mãi cho đến khi Xuyên Sơn Giáp xẻ một đường dài mười mấy mét dưới đáy bụng, thì nó mới hay tình thế nguy to, nhưng sự thể đã muộn.

Nó quằn quại, giãy chết trên thân cây cổ thụ một hồi lâu.

Tất cả diễn biến trên chỉ xảy ra trong thời gian nháy mắt, không đợi Tư Mã Khôi và La Đại Hải kịp định thần lại, Xuyên Sơn Giáp đã từ vết rạch trên bụng con mãng xà rơi tõm xuống đất, trông gã chẳng khác nào một củ cải đỏ lòm, từ đầu đến chân dính nhầy nhụa chất dịch vị trong dạ dày con quái thú.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thấy thân hình phì nộn của Xuyên Sơn Giáp rơi từ không trung xuống, thì cùng đồng thanh hét lên hoảng hốt, rồi định chìa tay ra đón, nhưng hai người bọn họ làm sao có thể đỡ nổi.

Một người sống nặng một trăm bảy mươi tám cân, lại rơi vèo vèo từ trên cao xuống, trọng lực có khác chi bom dội.

Thế là Xuyên Sơn Giáp đâm sầm vào người bọn họ, tất cả ngã nhào ra đất, cuốn cả vào nhau, lăn liền mấy vòng.

Còn con mãng xà treo mình trên cành cây cổ thụ đã chết vì bụng rách, mất máu quá nhiều, xác nó từ cây cao trôi tuột xuống, Tư Mã Khôi lăn sang một bên tránh con rắn chết.

Quay sang Xuyên Sơn Giáp, anh phát hiện gã bị té ngã không nhẹ, hơn nữa chất axít tiết ra từ dịch vị tiêu hóa trong dạ dày con mãng xà rất đậm đặc, cho dù thân thể gã to khỏe, lại thoát thân thần tốc nhưng da thịt vẫn bị phân hủy nhiều phần, ngũ quan trên mặt cũng chẳng còn toàn vẹn.

La Đại Hải vô cùng thán phục chiêu xẻ bụng mãng xà, tự mình chui ra khi nãy của Xuyên Sơn Giáp, giờ nhìn thấy bộ dạng gã thảm hại như vậy, anh không để ý bản thân cũng đang đau ê ẩm khắp mình mẩy, vội vàng đỡ gã dậy, ân cần hỏi:

“Anh bạn Xuyên Sơn Giáp, anh vẫn bình an vô sự đấy chứ?

” Tư Mã Khôi quan sát thương thế của Xuyên Sơn Giáp, rồi lấy tay khẽ ấn lên bề mặt da, thấy tất cả đều mềm nhũn như quả dưa thối, tóc tai rụng sạch, mũi chạm một cái là rớt xuống, bèn lắc đầu nói:

“Đã thành bộ dạng này rồi, còn bình an vô sự được sao?

Anh tìm mọi cách để gọi mọi người đến một cách nhanh nhất, biết đâu nếu được Tuyệt cấp cứu kịp thời, Xuyên Sơn Giáp lại giữ được cái mạng.

Thế là anh lập tức huơ huơ pháo sáng tín hiệu, giơ cao tay gắng ném nó đi thật xa.

Ai ngờ, ánh lửa màu đỏ của pháo hoa vừa lóe lên, trong phút chốc toàn bộ khu vực phụ cận đều rực sáng.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải kinh hoàng phát hiện dưới màn bụi bay mù mịt như sương khói, trong những hốc cây hoặc động đá, hàng ngàn con mãng xà Miến Điện đang giương cặp mắt sáng quắc như điện xẹt, miệng thò thụt chiếc lưỡi đỏ lòm, con nào con nấy to lừng lững như cái đấu đong gạo, chẳng biết dài bao nhiêu mét.

Chúng lũ lượt thò đầu ra khỏi hang, vắt vẻo đu mình, rồi ngoằn nghoèo bò xuống đất.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải than thầm trong bụng, vừa tận mắt chứng kiến Xuyên Sơn Giáp bị con mãng xà nuốt vào bụng, thân hình biến dạng thảm hại thế nào, nên giờ đâu dám chần chừ nửa giây.

Cả hai đồng thanh hét lên một tiếng, rồi vội vã quay đầu bỏ chạy thục mạng, liền ngay đó, mấy chục con mãng xà Miến Điện lập tức phóng mình đuổi theo.

Tuy trong thâm cốc rừng già, cây cối um tùm, địa hình phức tạp khiến tốc độ di chuyển của lũ rắn giảm đi đáng kể, nhưng con người cũng vì thế mà chẳng thể chạy nhanh.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải chạy cuống cuồng ra khỏi chỗ cũ chừng mấy trăm bước, trong lúc hoảng loạn, chẳng kịp nhìn kỹ đường, chỉ thấy chỗ nào có thể dung thân là lập tức lao vào ẩn trốn.

Quần áo trên người bị móc rách không biết bao nhiêu chỗ, tốc độ di chuyển cũng buộc phải chậm lại.

Chỉ nghe lũ mãng xà rượt đuổi phía sau lao vù vù như gió cuốn, tiếng thân mình chúng va chạm vào cành khô, bùn đất nghe “lào rào”, khoảng cách đôi bên càng lúc càng bị rút ngắn.

Tư Mã Khôi nhận thấy tình thế khó bề thoát thân, nên đành dừng lại cùng La Đại Hải, mỗi người nắm chặt con dao săn trong tay, lưng dựa sát vào một thân cây cổ thụ, chuẩn bị quyết chiến sống mái với chúng một phen.

Đúng lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc, thì hai người đột nhiên thấy hai lưỡi lửa bỏng rát vù vù lao ra từ sau thân cây.

Lưới lửa rừng rực, sóng này nối tiếp sóng khác.

Cây cối xung quanh đổ rạp như gặp phải thần quỷ, để mặc chúng ra sức thể hiện sự hung tợn và cuồng bạo của mình.

Những nơi lưỡi lửa liếm đến, ngay cả không khí và bùn đất đều bị bốc cháy, khí quyển khô nóng đến mức khiến người ta phải cảm thấy ngột ngạt.

Tư Mã Khôi trấn tĩnh nhìn lại, thì ra hội Ngọc Phi Yến bám ngay phía sau, nhìn thấy ánh sáng của pháo phát tín hiệu liền nhanh chóng đuổi theo tiếp ứng, đợi khi gần đến nơi, phát hiện phía trước có mãng xà lai vãng, bèn dùng bình phun lửa mang theo tấn công chúng.

Mãng xà Miến Điện tuy da dày thịt cứng nhưng cũng chẳng phải mình đồng da sắt gì, làm sao chúng chịu nổi sự thiêu đốt của ngọn lửa cuồng bạo.

Con nào không bị cháy thành tro ngay tại trận thì cũng thục mạng tháo chạy mất tăm mất dạng.

Ngọc Phi Yến phát hiện ba người đi trước dẫn đường giờ chỉ còn hai, liền đoán biết bọn họ đã gặp phải chuyện chẳng lành.

Cô ả không hỏi han gì nhiều, lập tức huýt sáo gọi đám lính vũ trang người Miến Điện đến, dùng bình phun lửa mở đường, tỏa ra thành hình nan quạt tiến sâu vào khe cốc.

Đi chẳng bao lâu, cả hội đã tìm thấy thi thể nằm thẳng đuỗi trên đất của Xuyên Sơn Giáp.

Mọi người nhìn thấy tư thế chết thảm thương của Xuyên Sơn Giáp, lại nghe Tư Mã Khôi và La Đại Hải thuật lại đầu đuôi sự việc, đều cảm thấy không lạnh mà sởn gai ốc.

Ngọc Phi Yến thầm nghĩ:

“Lần này Khương sư phụ đã tính sai một bước, việc chưa đến đâu mà khiến một huynh đệ phải bỏ mạng”.

Cô ả dẫn mọi người đến trước thi thể của Xuyên Sơn Giáp bái lạy:

“Toàn huynh gia cứ an tâm lên đường, tất cả già trẻ gái trai trong nhà đã có mọi người thay mặt huynh chăm sóc.

Sau khi trở về, chúng tôi sẽ đến chùa Kim Bồ Đề lập bia trường sinh, nếu huynh ở dưới cửu tuyền có hay, thì hồn thiêng hãy bay đến đó mà thọ hưởng hương hỏa”.

Sau đó, Thắng Ngọc lệnh cho thuộc hạ cắt đầu Xuyên Sơn Giáp mang về an táng, phần thi thể còn lại được đốt thành tro, rồi đào một nấm mồ chôn cất tro cốt rất cẩn thận.

Ngọc Phi Yến gọi Xuyên Sơn Giáp là Toàn huynh gia, kỳ thực Xuyên Sơn Giáp không mang họ Toàn, chẳng qua hành quy của bọn hối tử trộm mộ có rất nhiều điều cấm kỵ, về cơ bản, chúng khá tương đồng với đạo lục lâm.

Theo giới luật của dân giang hồ Quan Đông, điều húy kỵ nhất ở mỗi ngành nghề, chính là trong tên có nhắc đến các số “hai, bốn, sáu, tám, chín”, bạn có thể gọi họ là tam ca, ngũ ca, nhưng không được gọi họ là nhị ca, tứ ca.

Xuyên Sơn Giáp là con thứ tư trong gia đình, cho nên Ngọc Phi Yến dùng chữ Toàn để thay thế.

Việc này nếu nghiên cứu kỹ lưỡng thì rất sâu sa, nếu nói đơn giản, dễ hiểu một chút, thì đại khái là do “tam giáo cửu lưu, thiên môn vạn đạo” tất cả bọn họ đều tôn kính Quan Đế Thánh Quân, mà Quan Đế là nhị ca trong ba anh em Lưu Bị kết nghĩa vườn đào, đương nhiên chẳng ai dám bằng vai phải lứa với Quan Nhị Gia.

Hơn nữa, thời Bắc Tống có tên Dương Tứ Lang hàng địch theo Liêu, thời Tùy Đường có Lão Lục La nuốt lời thề, phản bội huynh đệ.

Họ đều là những điển hình phản diện, cho nên giới giang hồ mới cố tình tránh né để cảnh báo đời sau.

Dân giang hồ còn tuyệt đối tuân thủ luật lệ “Ba nói, ba không nói, ba lộ, ba bất lộ”.

Ba nói, ý muốn ám chỉ những phi vụ của đạo tặc lục lâm, được phép nói với người cùng nghề, được phép nói ở điện đốt hương, được phép nói lúc ra tay trộm được đồ ăn cắp.

Ba không nói là không được nói với đông đảo mọi người ở sân đình, không được nói ở miếu điện – cũng có nghĩa là không được ăn nói tùy tiện trước mặt quan viên cùng nghề, và không được nói lúc uống rượu trụy lạc.

Ba lộ là được phép tiết lộ lúc bản thân gặp tai nạn, được phép tiết lộ khi có việc gấp, được phép tiết lộ khi gặp đạo tặc.

Ba bất lộ là không được tiết lộ cho người gặp trên đường, không được tiết lộ cho người nhà, không được tiết lộ cho cừu nhân.

Không được tiết lộ cho người nhà tức là “trên không nói cho cha mẹ, dưới không nói với con cái”, truyền nhân trong gia tộc đương nhiên không tính vào đây.

Rốt cục những giới luật và húy kỵ trong quan gia giới đạo không chỉ giúp họ bảo vệ được bí mật trong nghề ở mức độ nào đó mà còn giúp họ gặp lành, tránh dữ.

Hội trộm mộ trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn càng là những kẻ tin tưởng, khiếp nhược thần linh, nghiêm khắc tuân thủ hành quy xưa cũ.

Đợi sau khi xử lý hoàn tất thi thể của Xuyên Sơn Giáp, thì thấy sắc trời đã mỗi lúc một âm u hơn.

Dưới sự uy hiếp của cơn bão nhiệt đới Buddha đang ngày một sát gần, mọi người không dám lưu lại lâu hơn, vội vã khởi hành vào sâu trong sơn cốc.

Vì thời gian gấp gáp, có muốn quay trở về đường cũ thì cũng bị nước lũ và dòng bùn đất do cuồng phong bạo vũ mang đến nuốt chửng.

Bởi vậy, Ngọc Phi Yến không cắt cử người đi trước dẫn đường nữa mà tất cả mọi người cùng tiến vào khu rừng bí ẩn.

Đường nhánh ở khe sâu trong sơn cốc mỗi lúc một nhiều hơn, mạch núi nhấp nhô, miên man bị rừng rậm nguyên sinh che phủ.

Do các loài thực vật sinh trưởng ở đây đều có tính xâm lấn rất mạnh, khiến địa tầng trong lòng núi bị nứt toác, tạo thành rất nhiều khe sâu, chúng giao thoa ngang dọc lằng nhằng, phân bố chằng chịt như mạng nhện.

Trong lòng cốc mọc đầy các loài thực vật phụ sinh và thực vật bì sinh, cộng thêm vô số những huyệt động lớn nhỏ, trông chúng chẳng khác gì một mê cung màu xanh nhiều tầng lớp.

Lòng núi yếu xốp có thể sụt lở bất cứ lúc nào, cho dù trong tay có bản đồ chi tiết, thì đi vào nơi sâu vẫn rất dễ bị lạc đường.

Đi như vậy một hồi cũng chẳng biết có đúng phương hướng hay không, Khương sư phụ bèn bảo mọi người dừng lại, lão giải thích, đi mãi thế này, chỉ sợ lạc đường, tốt nhất nên bày trận “Tiên thiên tốc trưởng, ngũ hành bát quái”, để xác nhận xem phương hướng đội thám hiểm đang đi là đúng hay sai.

Hội Ngọc Phi Yến đều biết lão ta dày dạn kinh nghiệm, tinh tường lọc lõi, thuật quan sát phân tích thời thế, đoán biết sự biến đổi của tình hình lại rất cao minh, nên tự nhiên tin phục.

Khương sư phụ lập tức lấy ra một đồng tiền xu, úp ngược lên chiếc quạt giấy mở rộng, rồi lật đi lật lại nhiều lần, hai mắt lão dán chặt vào mặt lá bài, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm:

Sửu bất Nam hành, Dậu bất Đông, cầu tài trộm mộ chỉ hư không, Dần Thìn về tây, tà hiểm ác, trong quan gặp quỷ, đại kiết hung, Hợi Tý phương Bắc, người mất của, đi lại chẳng thành, cách núi sông, Tỵ Mùi Đông Bắc gặp tai nạn, tam sơn cản lối, chẳng hanh thông, Ngọ Thân chớ đi Tây Nam lộ, xuống ngựa cửa mả, nạn chất chồng, Gặp Tuất đừng đi dưới đường hầm, đụng độ yêu ma mạng mất không, Mão lên Tây Bắc tai họa giáng, ưng khuyển tác quái, há uổng công.

Khương sư phụ tính xong, lại dùng la bàn xác định cho rõ thêm, lão ngắm chuẩn một khe cốc sâu, rồi vội vội vàng vàng đi tuột vào bên trong.

Ngọc Phi Yến cũng cuống quýt dẫn mọi người bám sát theo sau.

Ngược lại với thái độ tin tưởng tuyệt đối của cô ả, Tư Mã Khôi lại đem lòng sinh nghi.

Anh không mảy may nghi ngờ huyền thuật suy đoán phong thủy địa lý của dân trộm mộ, nhưng không hiểu sao lại lờ mờ cảm thấy dường như Khương sư phụ thay đổi cả con người vậy, trên mình lão tỏa ra một mùi khác thường khó có thể hình dung cụ thể, chẳng biết lão định dẫn mọi người đến nơi nào.

Cả đoàn đi theo Khương sư phụ, lòng vòng quanh co trong rừng rậm một hồi khá lâu, có tên lính Miến Điện phát hiện trong vũng nước tù màu xanh đen, lộ ra một cánh tay người chết.

Tên đó chắc hẳn phải là tay già đời chốn sa trường, nhìn thấy xác chết liền lập tức khám xét một hồi, xem trên thi thể nạn nhân có vật gì đáng giá đại loại như đồng hồ hay không.

Thế là hắn liền đi lên phía trước gắng sức lôi cái xác lên, hì hục một hồi cuối cùng cũng vớt được cái tử thi nước ướt ròng ròng.

Cái xác bị lật úp xuống dưới, sau khi lật lên, một khuôn mặt đen xì xì lộ ra trước mắt.

Dưới ánh đèn Halogen, mọi người có thể nhìn thấy da thịt trên gương mặt đã hoàn toàn bị khô đét, lõm sâu, màu da đen quánh như xì dầu đặc, trông chẳng khác chi một cái xác khô bị bay hết hơi nước trên sa mạc, không những vậy miệng tử thi còn mở rộng, hốc mắt lóm sâu, vẫn giữ nguyên nét mặt đau đớn trước khi chết, quần áo xung quanh đều mủn như mùn, chẳng rõ đã chết được bao tháng bao năm, cũng không thể đoán biết thân phân lai lịch của anh ta.

Lúc này mọi người đều lũ lượt dừng bước theo Khương sư phụ, Tư Mã Khôi nhìn thấy xung quanh có nhiều vết tích cháy đen do bị bình phun lửa hun đốt khi nãy, trong lòng càng dấy lên nghi ngờ:

“Sao lão giặc đất họ Khương cầm cái quạt rách, mông chẳng quạt, lại đi quạt mặt, mà dẫn cả hội trở về sào huyệt mãng xà thế nhỉ?

Anh lén quan sát xung quanh, thì thấy mặt Khương sư phụ trắng bệch như tờ giấy, thần sắc hoảng thốt, mắt khô vàng như sáp nến, gương mặt trông gầy đi rất nhiều so với trước.

Anh đứng bên cạnh bình tĩnh quan sát tiếp thì thấy, lão có vài nét khá tương đồng với cái xác chết khô trong vũng nước, cả hai đều giống với loài ác quỷ bò ra từ “thành hàm oan”.

Lão tam Hải Đông Thanh trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn là người có ánh mắt rất sắc bén, gã cũng phát giác con đường đang đi là quay trở về xuất phát điểm ban đầu, lại nhìn thấy Khương sư phụ có vẻ khác thường, liền đi lên phía trước hỏi:

“Sư gia, người làm sao vậy?

”, chỉ nghe miệng Khương sư phụ lẩm bẩm câu gì chẳng rõ tiếng.

Hải Đông Thanh không nghe được, lại cho rằng lão có chuyện cơ mật, bèn ghé sát tai vào, thì thầm:

“Sao ạ?

Người hãy nói rõ hơn một chút…” Tư Mã Khôi dự cảm thấy có chuyện chẳng lành sắp xảy đến, anh muốn ngăn cản Hải Đông Thanh nhưng lại chậm mất nửa bước.

Hải Đông Thanh chưa kịp dứt lời thì thấy phần miệng của Khương sư phụ đột nhiên rách toạc ra làm tư từ trên xuống dưới, từ trái sang phải.

Tư Mã Khôi biết thời Thanh có một loại ám khí, gọi là “Huyết trích tử”, đó là quả cầu kim loại rỗng ruột gắn dây thừng dài, to gần bằng sọ người, bên trong giấu lưỡi dao sắc bén và dung dịch hóa cốt – loại dung dịch chỉ cần rắc lên thân thể người chết, sẽ lập tức xảy ra phản ứng hóa học, trong phút chốc thi thể hoàn toàn tiêu tán, chỉ để lại chút tạp chất khó lòng phân biệt là thứ gì.

Thích khách sử dụng loại vũ khí này thường ẩn mình trên xà nhà, nhìn thấy mục tiêu ở phía dưới, thì ngắm chuẩn đầu người đó và quăng “huyết trích tử”.

“Huyết trích tử” hễ chạm đầu người sẽ lập tức phân thành nhiều cánh tỏa xuống phía dưới, ôm chặt lấy sọ người.

Thích khách lại vẩy tay giật dây thừng lên, “huyết trích tử” liền tự động cắt đứt đầu người, dưới đất còn mỗi xác chết không đầu đứng sừng sững, thủ cấp trong “huyết trích tử” cũng sớm bị dung dịch hóa cốt giải quyết nhanh gọn, chỉ sót một giọt máu tươi dính trên đó, bởi vậy nó mới có tên “huyết trích tử”.

Tư Mã Khôi cảm thấy đầu của Khương sư phụ giờ đây chẳng khác nào một quả “huyết trích tử”, từ phần miệng rách toạc, nở ra vô số cánh, càng phình càng dài, những chiếc cánh phóng vù về phía trước, nhanh như chớp chùm gọn lấy đầu Hải Đông Thanh, rồi lôi vào trong, sau đó liền thu các cánh đang tỏa ra lại và khép chặt.

Sự việc xảy ra quá đột ngột, khiến mọi người ai nấy đều kinh hoàng, đứng im như phỗng.

Sau thời khắc thất thần, Hải Đông Thanh cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim thép chọc thẳng vào óc, đau đến nỗi tứ chi co rút, trong phút giằng co giãy chết, khẩu súng trên tay gã bị cướp cò, một loạt đạn quét dọc theo đường di chuyển, đốn ngã mấy đồng bọn trong nháy mắt.

Một viên trong số đó đâm xuyên qua ngực một tên lính Miến Điện, đánh trúng thùng nhiên liệu của bình phun lửa mà hắn đang cõng trên lưng, chiếc thùng lập tức phát nổ, chỉ nghe “ầm” một tiếng vang trời, quả cầu lửa bùng lên nuốt chửng những kẻ không kịp chạy đang đứng xung quanh, ngọn lửa rừng rực biến tất cả thành tro bụi.

Hồi 2 :

Đỉa Campuchia ăn thịt người Thùng nhiên liệu của bình phun lửa phát nổ, lập tức nuốt chửng mấy tên lính vũ trang người Miến Điện đứng gần đó, cả Hải Đông Thanh và Khương sư phụ cũng bị bùng cháy như hai quả cầu lửa.

Tính cháy nổ của nguyên liệu chất đốt quân dụng vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần nó bùng lên, thì không biện pháp gì có thể dập tắt được, hơn nữa ai bị ngọn lửa bủa vây, kẻ đó sẽ nhất định sẽ chết trong tiếng thét gào thảm thiết và ra sức giãy dụa quằn quại.

Ngọc Phi Yến bị trấn động tâm thần, đứng im tại chỗ bởi biến cố xảy ra quá bất ngờ.

Cô nàng biết rõ sự lợi hại của bình phun lửa, cho dù cố dập lửa cứu sống hai kẻ may mắn mà “diện tích vết bỏng toàn thân lên đến 99%” thì rừng rậm nguyên sinh cách xa bệnh viện thế này cũng đâu làm được gì, ngoài việc khiến họ sống chịu tội.

Điều duy nhất có thể làm bây giờ là lập tức nổ súng, giúp họ sớm kết thúc sự đau đớn do bị ngọn lửa hung tàn hun cháy da thịt.

Ngọc Phi Yến từ trước đến nay hành sự rất quyết đoán, nhưng đối với anh em thuộc hạ đã theo mình nhiều năm thì rốt cục vẫn không nỡ nhẫn tâm, cô đành ra dấu nhờ Gấu trắng – kẻ lưu vong người Liên Xô – giúp mình kết liễu họ.

“Gấu trắng” có tên thật là Ciglovski, trước đây từng chịu khổ hình, lưỡi bị người ta cắt mất quá nửa, giờ đây gã có miệng mà khó nói thành lời, nhưng kinh nghiệm vận dụng thuốc nổ của gã cực kỳ phong phú, chỉ cần dự tính đại khái về số lượng thuốc nổ và phương hướng phát nổ là có thể làm gần như chính xác so với thực tế.

Gấu trắng là chuyên gia phá nổ được Ngọc Phi Yến thuê về.

Gã người Nga này mang huyết thống Ngoại Kavkaz, cao khoảng một mét chín mươi, thân hình to lớn vạm vỡ, tâm địa đen tối, hạ thủ tàn độc.

Năm đó, khi làm cố vấn quân sự viện trợ Việt Nam, gã đã lén trốn ra nước ngoài.

Sau khi gã chạy trốn, toàn bộ già trẻ gái trai trong nhà đều bị KGB bắt giữ xử bắn, bởi vậy gã mang lòng hận thù bức màn sắt Nga – Xô Viết đến tận xương tủy, có lẽ những trải nghiệm lưu vong khốn khó đã khiến hắn hình thành tính cách khát máu tàn nhẫn như tên đồ tể.

Gã giương súng, nhằm thẳng vào mấy thân hình đang bốc cháy rừng rực như cây đuốc sống, từ từ hạ gục từng người một, mỗi phát súng đều bắn xuyên não.

Trong cả quá trình giết người, gã chẳng hề chần chừ nửa giây, ra tay vừa tàn bạo, vừa chuẩn xác, gương mặt tỉnh khô không chút biểu cảm, trông gã chẳng khác chi một cỗ máy hạng nặng do Liên Xô chế tạo – lạnh lùng và tàn khốc.

Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải trố mắt lên nhìn mà từng cơn lạnh cứ trườn qua gai sống lưng, nhưng đặt mình vào vị trí của cô ả mà xét, thì có lẽ Ngọc Phi Yến cũng chẳng qua vạn bất đắc dĩ mà thôi, nếu là mình, liệu có đủ nhẫn tâm ra lệnh cho tay người Nga kia hạ thủ bạn bè như thế không.

Sau một hồi súng vang lên, cánh rừng rậm thăm thẳm lại trở về vẻ yên ắng như ban đầu của nó, Ngọc Phi Yến vẫn chưa thể hoàn hồn, tim đập liên hồi, chân tay run lẩy bẩy, cô đăm đăm nhìn bảy tám cái xác, chết chẳng toàn thây, dung mạo cháy rụi, nằm co quắp trên mặt đất.

Có ai ngờ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cô lại mất Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp, Hải Đông Thanh, những người này đều là tứ xà ba cột trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn, là hai cánh tay trái phải của mình, từ khi bước chân vào giang hồ đến nay, cô chưa bao giờ bị mất mát, hao tổn và gặp trắc trở gập ghềnh đến thế, có lẽ vậy nên trong phút chốc cô không thể chấp nhận sự thật và thích ứng với nó.

Lúc này chỉ còn lại mười mấy tên lính vũ trang người Miến Điện và hội bốn người Tư Mã Khôi, đi lên phía trước xắn tay áo, đào hố chôn mấy cái xác bị thiêu cháy thành tro.

Một người trong đoàn chợt nhìn thấy có thi thể nằm dưới khe nước nông, cứ nghĩ đó là tử thi của đồng bọn, trong lúc giãy chết đã lăn xuống đó, nên định tiến đến trước vớt cái xác lên.

Nào ngờ, lại gần mới phát giác thi thể phảng phất hình người ấy không hề bị lửa thiêu cháy, mặt mũi chẳng thể nhận diện, tảo nước bám đầy thân thể, nhiều chỗ lòi cả khúc xương trắng ởn, chắc đó là thi thể bị chìm dưới nước đã nhiều năm.

Xác chết này có rất nhiều điểm tương đồng với cái xác tìm thấy ở ven vũng nước khi nãy.

Những chỗ trũng địa thế thấp trong thâm cốc tồn tại vô số vũng nước tù, lâu ngày tạo thành đầm hồ, hơn nữa người mất tích ở núi Dã Nhân lại nhiều không kể xiết, bởi thế phát hiện mấy cái xác trong vũng nước cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ.

Nhưng khi mọi người quan sát kỹ cái xác, thì không nén nổi một tiếng kêu kinh hãi, khắp mình mẩy xác chết trương phình nổi lềnh bềnh trên mặt nước chi chít những giác hút.

Thật không thể tưởng tượng nổi, vật lộ ra khỏi đám rong rêu không phải xương trắng của người chết mà là một con đỉa đang ngọ ngoạy vô số mao nhu động.

Trên thực tế, đó là một con đỉa Campuchia ăn thịt người ẩn náu trong cái xác bị tảo xanh bám đầy.

Tư Mã Khôi ở Miến Điện đã nhiều năm, anh biết loài “đỉa Campuchia ăn thịt người”, nó còn có tên là “đỉa nước nữ hoàng” hay “đỉa chúa”, chỉ sống ở những dòng nước tăm tối trong rừng rậm nhiệt đới ẩm thấp, sinh tồn nhiều nhất ở lãnh thổ Campuchia, chúng có tập tính ký sinh trong thi thể mục rữa hoặc xác cá chết, lúc đầu đỉa chúa sống phụ sinh trong một cơ thể sống và phát triển theo kích cỡ của cơ thể sống đó.

Phần lớn trứng đẻ ra đều là những con đỉa bình thường, chỉ những cái trứng ký sinh trong cơ thể động vật máu nóng mới trở thành đỉa chúa, bản thân đỉa chúa không ăn thịt người, mà chỉ hút sạch máu từ đầu xuống chân, điểm khác biệt so với đồng loại là nó có thể hút cạn máu của một con trâu hoặc voi rừng trong nháy mắt.

Ở những vùng hoang dã phía tây nam có rất nhiều loài đỉa này xuất hiện hãm hại con người, nên dân gian mới gọi nó bằng cái tên “đỉa ăn thịt người”.

Những người Miến Điện khác đều biết sự lợi hại của nó, tuy chẳng ai dám dùng tay sờ vào “đỉa Campuchia ăn thịt người” nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ để họ kinh hồn đảm vía, chẳng ai đợi thủ lĩnh ra lệnh, người nào người nấy đều giương súng chĩa thẳng vào mục tiêu, sau trận càn quét của súng đạn, con đỉa chúa to lớn dị thường bị bắn tan xác pháo.

Ai ngờ, trong cơ thể đỉa chúa toàn là những con đỉa con to khoảng năm sáu centimet, chui ra từ vết rách do bị súng bắn trên cơ thể mẹ, bò loằn ngoằn xuống nước, gặp da thịt người sống lập tức cuống cuồng xuyên bừa vào.

Mọi người hoảng hốt, ai lo thân người nấy, mau chóng tháo chạy.

Tư Mã Khôi nhanh tay tinh mắt, liền vớ lấy bình phun lửa còn sót lại ở trên bờ, ngắm thẳng vào lũ đỉa ăn thịt người phun mạnh, luồng lửa hung bạo lao ra quét một đường, trong phút chốc vô số đỉa con và xác đỉa chúa đều bị chết cháy dưới nước.

Tư Mã Khôi giơ cao đèn Halogen, dưới ánh sáng mạnh của chiếc đèn, anh có thể quan sát tất cả mọi nơi gần đầm nước, chỉ thấy trên mặt nước nổi lềnh bềnh cơ man nào là đỉa Campuchia ăn thịt người, thân hình chủ thể ký sinh phình to khác thường, trên lưng có những vệt vàng trông như mắt người, phần bụng màu tựa lá khô, trên đó có vô số giác hút.

Mọi người được tận mắt chứng kiến cảnh tưởng sống động như vậy, gan ruột tự nhiên như bị teo rúm lại, da dầu căng cứng, trong lòng chỉ có mỗi hai từ “khiếp đảm”.

Số lượng loài đỉa này trong rừng rậm nhiều vô kể, hơn nữa lại sức sống của nó lại rất dai dẳng, bền bỉ, trừ bình phun lửa ra thì dao súng bình thường khó lòng giết chết được nó, nhưng chỉ cần không lại gần mặt nước thì sẽ an toàn hơn nhiều.

Lúc này, đám tàn binh vũ trang Miến Điện chỉ còn lại mười mấy người, họ không chịu nghe theo mệnh lệnh của Ngọc Phi Yến nữa, bọn họ vốn dĩ cũng chỉ là đám quân ô hợp, tất cả đều vì tiền mà bán mạng, tuy hô khẩu hiệu cần tiền, bất cần mạng, nhưng nếu vứt bỏ mạng sống thì tiền kiếm được còn có nghĩa lý gì?

Bọn họ thấy trước mắt vẫn chưa tiếp cận được với khe cốc nơi chiếc tiêm kích vận tải mất tích, mà đã thiệt hại bao nhiêu huynh đệ, xem bộ dạng khi nãy của Khương sư phụ chẳng phải trúng tà thuật thì cũng bị quỷ ác nơi rừng già núi sâu nhập tràng, giờ còn tiếp tục tiến vào sâu hơn, không khéo chẳng ai giữ được mạng mà trở về.

Huống hồ thủ lĩnh đội thám hiểm căn bản chẳng coi họi là con người, chết một mạng mà thờ ơ như chết một con sâu cái kiến, nếu còn ở lại chẳng sớm thì muộn cũng bị biến thành “tro pháo” chết thay người ta.

Thế là, dưới sự lãnh đạo của một tên, bọn họ cướp tất cả vũ khí lương thực, rồi vuỗi tay không làm nữa, nhất loạt quay đầu về đường cũ tháo chạy.

Đám lính Miến Điện, tên nào tên nấy đều được vũ trang đầy đủ, khi bị đẩy đến bước đường cùng và phản kháng lại thì họ trở nên cực kỳ nguy hiểm.

Hơn nữa, đội thám hiểm chỉ còn lại vài người, không thể khống chế nổi cục diện, nếu đối đầu thì chắc chắn hai bên sẽ cùng thương vong thiệt mạng, nên Ngọc Phi Yến chẳng biết làm gì khác ngoài việc trợn trừng mắt nhìn bóng họ dần khuất xa, răng nghiến vào nhau nghe ken két.

Quay đầu lại nhìn hội Tư Mã Khôi, cô ả gằn giọng hỏi:

“Sao các anh không biến nốt đi?

” Tư Mã Khôi nhìn những người ở lại, ngoại trừ bản thân, La Đại Hải, Tuyệt, Karaweik ra thì đoàn thám hiểm chỉ còn Ngọc Phi Yến, Thảo Thượng Phi và anh bạn người Nga Ciglovski, tất cả bảy người.

Thoáng suy nghĩ một chút, anh cảm thấy tiền nhân hậu quả đúng là điều không thể lường trước được, hơn nữa cơn bão nhiệt đời có thể ập đến bất cứ lúc nào, mưa to gió lớn sẽ kèm theo lũ lụt, lở núi nghiêm trọng, những khu vực ở địa thế thấp chắc chắn sẽ bị nhấn chìm, đám lính vũ trang Miến Điện chạy trốn theo con đường cũ, e rằng chẳng khác nào tự mình đâm đầu vào chỗ chết.

Bởi vậy, không thèm để ý đến mấy lời châm chọc của Ngọc Phi Yến, anh chỉ hỏi:

“Rốt cục chuyện gì đã xảy ra với Khương sư phụ thế nhỉ?

” Đối với những sự việc xảy ra trước khi Khương sư phụ bị lửa thiêu chết, Ngọc Phi Yến vẫn chưa hết tim đập chân run, cô vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần người khác gật đầu một cái là lập tức hiểu họ muốn nói gì, nghe Tư Mã Khôi nói, cô lờ mờ cảm thấy không ổn, thầm nghĩ:

“Chẳng lẽ đúng là bị trúng tà….

” Tư Mã Khôi không đợi Thắng Ngọc trả lời, liền tiếp lời luôn:

“Tôi thấy có khả năng Khương sư phụ bị trúng bùa ngải trong núi Dã Nhân”.

Nghe nói, để bảo vệ bí mật của núi Dã Nhân, người cổ đại đã cài đặt rất nhiều lời nguyền độc địa và các cạm bẫy cơ quan hiểm ác, theo tin tình báo nắm được hiện nay, quân đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân Mỹ và vô số những nhà thám hiểm bước chân vào núi này trước đây đều phát hiện rất nhiều di tích và văn vật cổ xưa, nhưng vì chúng bị hư hại nghiêm trọng nên khó có thể phân biệt rốt cục là di tích của thời kỳ, triều đại nào.

Từ đó suy đoán, những truyền thuyết ly kỳ tưởng như hoang đường kia rất có thể là sự thật, muốn vào núi Dã Nhân tìm kiếm chiếc tiêm kích vận tải bị mất tích nhiều năm, ngoại trừ phải đối mặt với điều kiện khí tượng và môi trường tự nhiên ác nghiệt, phức tạp ra, thì còn phải đối phó với nhưng tà thuật và cạm bẫy mà người cổ đại đã để lại, còn về việc trong núi Dã Nhân rốt cục ẩn chứa bí mật gì và ai đã yểm những loại phù chú, bùa ngải lấy mạng người này, dựa vào thông tin hạn hẹp mà bọn họ có trong tay giờ đây thì căn bản không thể mò mẫm ra nổi đầu mối.

Mấy năm nay, mấy người Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Tuyệt… thủy chung theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện chiến đấu trong rừng sâu, từng chứng kiến một số người bị yểm bùa ngải, còn Karaweik là dân bản địa chính gốc, sinh ra và lớn lên ở vùng núi này, nên càng rõ tình hình hơn ai hết.

Nếu người nào xuất hiện những triệu chứng giống như Khương sư phụ, thì chắc chắn chẳng có nguyên nhân gì khác, mà chắc chắn là bị chơi ngải.

Nếu chẳng may trúng loại tà thuật này, ngoài việc trước khi phát tác phải ăn thịt người luyện ngải hoặc yểm “vó ngựa” ra thì tuyệt đối chẳng có biện pháp gì giải cứu nổi, có điều tùy vào thể trạng của mỗi người khác nhau, nên cũng có kẻ may mắn thoát nạn, nhưng con số này chỉ chiếm 1%.

Tương truyền, ở Trung Quốc có một phương thuốc, đó là dùng “vó ngựa” để khắc chế bùa ngải, phương pháp dân gian này khởi nguồn từ Vân Nam.

Nghe nói, thời xưa phong tục tập quán ở Vân Nam hãy còn mang nặng màu sắc mê tín, nếu ai chẳng may mắc bệnh hiểm nghèo, họ thường không mời lang trung đến khám chữa, mà mời pháp sư đến để xua đuổi tà ma, nghênh đón thần tiên, nếu lỡ gặp chuyện quái dị thì lập tức dùng vó ngựa.

Vậy “vó ngựa” là gì?

đó không phải da ở lòng bàn chân con ngựa mà người ta vẫn hay dùng để đóng giầy, cũng không phải đế ngựa.

Khu vực miền Nam tục gọi “vó ngựa”, còn ở miền Bắc lại gọi “chân gà”, cũng chính là chân của con gà trống được cắt ra lúc nó vẫn còn sống.

Tương truyền, vật này có thể giúp xua đuổi tà ma, tránh điều hung dữ, nó và “móng lừa đen, bánh đả cẩu” được tụng là ba linh vật.

Tuy ở miền Bắc, không thường xuất hiện “vó ngựa” lắm, nhưng nó lại được truyền bá rộng rãi ở những nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Malayxia v.

v…Thời cổ xưa cũng từng có người dùng nó để đối phó với một số loại bùa ngải có điều cái ảo diệu, bí mật ẩn chứa trong đó đã sớm thất truyền từ hàng trăm năm trước.

Giờ đây, điều duy nhất có thể xác định được là “ngải” ở núi Dã Nhân được người cổ đại yểm từ hàng trăm ngàn năm trước, nhưng e rằng bây giờ ngay cả nắm xương của người luyện ngải cũng đã hóa thành tro bụi, chứ nói chi đến thịt, biết đến nơi nào để tìm mà ăn?

Bởi vậy ai bị chơi ngải, kẻ đó coi như gặp vận rủi, chắc chắn vô phương cứu chữa.

Hơn nữa, khi chết đi, đừng nói có thể luân hồi sang kiếp khác, mà ngay cả làm quỷ cũng chẳng thành.

Bùa thuật trong núi sâu Bắc Miến vô cùng đặc biệt, những kẻ trúng tà đều xuất hiện một vệt đen rất rõ nét ở con ngươi phía đáy đồng tử, hình dạng giống như phân tằm.

Nếu xung quanh bạn có ai xuất hiện dấu hiệu ấy, thì chắc chắn họ đã bị yểm bùa chơi ngải, tuyệt đối không sai lệch vào đâu được.

Hội Tư Mã Khôi cũng hiểu sơ qua về bùa và ngải ở Miến Điện, biết được phàm kẻ nào bị trúng ngải, đúng thực trong đáy mắt họ đều có cùng một đặc trưng này, nhưng chẳng ai hiểu rõ nguyên lý sâu sa của nó.

Chỉ là từng nghe người ta nói, ở Vân Nam, Quý Châu, bọn man di rất giỏi luyện ngải và độc trùng, còn Nam Dương, Thái Lan lại là đất bùa chú, Miến Điện vừa vặn nằm lọt giữa hai khu vực đó, bởi vậy tà thuật “bùa” và “ngải” hòa quyện, hợp nhất với nhau thành một thể, cái ảo diệu bên trong của nó vô cùng ly kỳ, quái dị, người thường không thể lý giải nổi bằng lý lẽ thông dụng, cũng không thể dò dẫm được bằng biện pháp thông thường .

Nếu bạn ở Miến Điện mà nhìn thấy gia đình nào, trong nhà không hề có mạng nhện hoặc đất bụi, thì có thể đoán định nhà đó đang nuôi ngải.

Còn về các chủng loại ngải, thì nhiều vô số kể, chẳng rõ chính xác là bao nhiêu, có ngải tôm cá, ngải da trâu, ngải tử thi, ngải độc trùng, ngải rắn, ngải xương chó, ngải vải, ngải ếch v.

v… Ngọc Phi Yến vẫn có chút bán tín bán nghi, liền nói với Tư Mã Khôi:

“Giờ đây thi thể của Khương sư phụ đã bị bình phun lửa thiêu cháy thành tro bụi, những gì anh nói cũng chẳng qua chỉ là phỏng đoán mà thôi, làm sao có thể khẳng định chắc chắn Khương sư phụ bị trúng ngải?

” Trong lúc hai người đang to nhỏ bàn bạc, thì Thảo Thượng Phi đứng bên cạnh hốt nhiên ho lớn từng cơn, miệng liên tiếp khạc ra mấy ngụm nước đen, đợi khi ngẩng đầu lên, thì trong mắt đã xuất hiện một vạch vàng mang tia máu, trông gã lúc này chẳng khác chi bộ dạng của Khương sư phụ khi trước.

Thảo Thượng Phi là gã có thân hình nhỏ thó, đầu gián mắt chuột, tính tình tinh tế lanh lợi, chắc bởi gã có tài khinh công đi nhanh như lướt, nên mới được đặt cho biệt danh Thảo Thượng Phi – bay trên cỏ.

Tuy cũng là loại giặc đất trộm mộ nhưng gã này bé gan nhỏ mật, vừa nãy nhìn thấy đồng bọn rơi vào tình cảnh thê thảm như thế thì đã sợ mất vía, mặt vàng như đất, tâm thần hỗn loạn.

Tư Mã Khôi trông bộ dạng của gã, bất giác như có một luồng hàn khí lạnh buốt xuyên thẳng vào óc, anh vội vàng đi đến đỡ Thảo Thượng Phi, rồi lật mí mắt dưới của gã ra xem, thì thấy dưới đáy hai con mắt đều xuất hiện một vệt đen kéo dài qua hai đồng tử, tiếp đó anh lần lượt xem mắt của những người còn lại.

Mọi người nhìn hành động của Tư Mã Khôi, đều dự cảm thấy một tai nạn lớn sắp giáng xuống đầu, chỉ mỗi Hải ngọng là vô tư hồn nhiên, anh hoàn toàn không biết gì cả, còn hỏi Tư Mã Khôi:

“Cậu xem cặp mắt của La Đại Hải tớ, có phải tám mươi mấy năm rồi không nhỏ giọt mưa nào, tình cảm tràn trề quá chăng?

” Tư Mã Khôi không để ý đến lời nói bông đùa của La Đại Hải, bởi vì anh phát hiện, tất cả mọi người, có lẽ bao gồm cả đám lính vũ trang Miến Điện vừa tháo chạy khi nãy, người nào người nấy đều có một vạch đen rất rõ nét ở dưới đáy mắt, giờ đây tính mạng của mọi người chỉ được tính bằng từng giờ, không, có lẽ chỉ còn từng phút nữa thôi.

Hồi 3 :

Bùa ngải Chết chỉ là một đoạn đường mà ai trong cuộc đời cũng phải đi qua, bản thân cái chết có lẽ không đáng sợ, mà điều đáng sợ là khoảnh khắc thắc thỏm, dày vò khi chờ đợi chiếc bóng của thần chết sắp sửa giáng xuống đầu.

Ngọc Phi Yến biết mình cũng bị trúng ngải, trong lòng cảm thấy chán nản, buông xuôi đến cùng cực, cô ả kề khẩu súng ngắn đã lên nòng vào ngực, chuẩn bị cho thời khắc cuối cùng sẵn sàng nã một đạn vào huyệt thái dương của chính mình.

Gã Gấu trắng người Nga tuy là một tín đồ cảm tử, một kẻ điên cuồng mất hết lý trí, nhưng khi thật sự đến lượt mình phải đối mặt với cái chết thì các cơ trên mặt cũng không khỏi thi nhau co quắp lại.

Gấu trắng lẳng lặng ngồi một mình dưới gốc cây, chẳng ai đoán được trong đầu gã đang nghĩ gì.

Đối lập với cảm giác bàng hoàng của đội thám hiểm, lúc này mấy kẻ may mắn sống sót trong đội du kích Miến Điện lại không hề bất ngờ một chút nào, bởi vì họ đã sớm quen với việc chịu đựng và đối mặt với cái chết, thậm chí Hải ngọng còn thoáng có thái độ kiểu như “cười vui trước nỗi đau của người khác”, tâm trạng của anh giờ đây chẳng khác chi bệnh nhân mang mầm bệnh nan y, vô phương cứu chữa, đang nằm dài chờ chết, đột nhiên biết được mấy vị láng giềng bên cạnh cũng mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo y như mình, trong lòng bất giác cảm thấy vô cùng yên ổn, an tâm.

Chỉ duy có Tuyệt là suy nghĩ tỉ mỉ, chu đáo hơn cả, cô nhìn bộ dạng Khương sư phụ trước khi chết gầy héo như một cái xác khô, liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi, nếu tất cả mọi người đều đã bị trúng tà thì tại sao lại không phát tác cùng một lúc?

Hay là trong đó tồn tại một quy luật hoặc thứ tự nào đó?

Trước đây, khi đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng con đường hầm này, từng xảy ra sự việc hàng loạt nhân viên trong đoàn bị mất tích, phải chăng bọn họ cũng chết bởi loại ngải thuật âm hiểm, quái dị kia?

Khái niệm về bùa và ngải quả thực quá đỗi mơ hồ, nếu có thể tìm ra căn nguyên, hoặc giả còn có cách giải cứu.

Tư Mã Khôi nói:

tôi đoán, phàm những người trúng tà đều căn cứ vào thể trạng và sức đề kháng không giống nhau, thứ tự chết dường như cũng có một quy luật nhất định.

Khương sư phụ tuy rằng thể trạng không tồi, đến tuổi này mà vẫn còn có thể vượt núi băng rừng, nhưng rốt cục lão vẫn thuộc dạng tuổi cao sức yếu, mắt mờ chân chậm, khí huyết không thể thông thuận như lúc trai trẻ, bởi vậy lão ta là kẻ bị phát tác trước tiên, tiếp theo đó là lão nhị “Thảo Thượng Phi” của đội thám hiểm, bởi gã lớn tuổi thứ hai sau Khương sư phụ.

Nếu tôi đoán không nhầm thì người thứ đến phải chết sẽ là gã ngoại quốc người Nga, còn người bị chết sau cùng sẽ là Karaweik.

Tư Mã Khôi nói đến đây thì ngoảnh đầu lại nhìn Karaweik, chỉ thấy cậu bé dùng cả hai tay ôm chặt lấy đầu, trên khuôn mặt toát lên thần sắc tuyệt vọng đến cực độ.

Ở Miến Điện, những người từng làm hòa thượng đều không sợ chết, trong quan niệm của họ, chết chẳng qua chỉ là sự bắt đầu của một luân hồi khác, nhưng đa số người bản địa đều vô cùng khiếp sợ tà thuật.

Họ cho rằng, con bọ ngải luồn vào trong não sẽ dần dần gặm nhấm hết linh hồn trú ngụ trong thể xác của người sống, bởi thế Karaweik cứ mãi ôm đầu, miệng không ngừng lẩm nhẩm chỉ một chữ duy nhất.

Tư Mã Khôi nghe được từ mà Karaweik không ngừng lẩm nhẩm dường như là “trùng”, lòng thầm cảm thấy kỳ quái:

“Trong đầu lấy đâu ra trùng bọ nhỉ?

”, nhưng sau đó anh liền nghĩ ra, những người sống trong rừng rậm núi cao, nhiều kẻ thường nuôi độc trùng và xem chúng là vật môi giới cho các loại tà thuật như bùa hay ngải, bởi vì trùng tính ly kỳ, khó có thể lý giải, nên sẽ khiến những câu chuyện về bùa ngải càng trở nên tà ma, đáng sợ hơn.

Người ta thường nói:

“Người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý”, câu nói của Karaweik khiến Tư Mã Khôi và Tuyệt hốt nhiên cảm thấy hiểm họa chí mạng mà đội thám hiểm đang gặp phải rất có khả năng là do trùng trứng của loài “đỉa Campuchia ăn thịt người” đã ký sinh vào cơ thể họ trong lúc không ai ngờ đến.

Nghe nói, đỉa Campuchia ăn thịt người có một tập tính rất đặc biệt, trên một cơ thể chủ chỉ có một con đỉa chúa sống ký sinh, nếu như trước khi đỉa chúa thành hình mà cơ thể chủ chết đi, thì tự nhiên nó cũng theo đó mà hóa thành hòn máu đặc, chẳng những vậy, chúng không thể ký sinh trong cơ thể bọ máu lạnh, bằng không cái trứng sẽ chỉ nở ra một con đỉa bình thường.

Đội thám hiểm từ lối cổng ra đổ nát của con đường U Linh tiến sâu vào sào huyệt trong thâm cốc, thì gặp sự công kích của bầy đỉa, con đỉa chúa khổng lồ bị bình phun lửa thiêu cháy khi ấy, cơ thể phình to ngang với thân hình một con người, hơn thế nữa ở đầm nước trong chỗ trũng gần đó còn tụ tập vô số đồng loại của nó, nếu không có thi thể người chết với số lượng tương ứng, thì làm sao chúng có thể sinh trưởng đông đúc đến vậy?

Có lẽ con đỉa nữ hoàng mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng chính là một trong những kẻ gặp nạn từng mất tích ở núi Dã Nhân bao nhiêu năm về trước.

Bộ dạng khô quắt sau khi trúng ngải của Khương sư phụ cũng giống như bị một con đỉa Campuchia ăn thịt người chui vào cơ thể, dần dần hút cạn toàn bộ tinh huyết và óc tủy quanh người, đến cuối cùng con đỉa thành hình mượn xác chết thay hình đổi cốt.

Lúc này, Khương sư phụ trở thành cơ thể chủ cho đỉa chúa trú ngụ, hay nói cách khác, thi hài lão trở thành sào huyệt của nó ở nơi vũng tù này.

Lúc phần sọ đột nhiên nở bung ra, cũng chính là lúc đỉa nước nữ hoàng đã chui vào não.

Tuy rằng Tuyệt đã sớm chẳng hề để tâm đến sự sống chết nhưng cứ nghĩ bên trong cơ thể mình có một con đỉa Campuchia ăn thịt người ký sinh thì lại thấy cách chết này quả thực quá sức ghê tởm và kinh dị.

Mặt cô không khỏi biến sắc khó coi, thất kinh hỏi:

“Từ khi tôi vào núi Dã Nhân đến nay, trước sau chưa từng chạm vào vũng nước tù có lũ đỉa đang sinh sống, tại sao lại bị loài đỉa nước này bám vào người vậy?

” Ngọc Phi Yến ngồi bên cạnh nghe thấy đoạn hội thoại giữa Tư Mã Khôi và Tuyệt, cô ả dường như vừa tóm được một tia hy vọng sống, liền nói chen vào:

“Nếu anh biết vì sao cơ thể bị loài đỉa ký sinh, thì cũng không đến nỗi trúng loại tà thuật này.

Môi trường ẩm ướt, oi bức trong núi Dã Nhân khiến trướng khí tràn lan khắp nơi, thực vật, thủy lưu, không khí, bùn đất, mây mù, đầm lầy đều trở nên bội phần nguy hiểm, đỉa Campuchia ăn thịt người thậm chí có thể luồn xuyên qua quần áo, giày tất và da thịt, nói cách khác chẳng lỗ nào chúng không thể thâm nhập, chẳng biện pháp nào đủ đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Nhưng nếu cái được gọi là ngải độc trùng chỉ là đỉa chúa chui vào trong cơ thể hút hết huyết khí, tinh tủy, thì hay chăng vẫn còn có thể nghĩ ra cách giải cứu?

” Tuyệt am hiểu rất sâu sắc về y lý, khi còn ở trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, cô đã từng nhiều lần chữa thương cho người bị đỉa hút máu, nhưng giờ đây cũng chỉ biết lắc đầu nói:

“Nếu đỉa bám ở vùng ngoài da thì còn dùng khói trực tiếp làm nóng nó hoặc đốt giấy cỏ hun chết, tóm lại có rất nhiều cách để đối phó.

Nhưng một khi nó đã bò vào trong bụng hoặc trong hộp sọ, thì ngoại trừ phẫu thuật lấy nó ra, tuyệt đối chẳng còn biện pháp nào khác.

Theo hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, tính mệnh chỉ còn tính bằng từng khắc, đừng nói đến việc chẳng thể phẫu thuật, mà cho dù có được đưa đến một bệnh viện hiện đại với đầy đủ máy móc tối tân để cấp cứu ngay tức khắc, thì cũng chẳng kịp nữa rồi”.

Ngọc Phi Yến liên tiếp đưa ra mấy phương pháp nhưng chẳng cách nào hữu hiệu, ví dụ tự mình nuốt độc dược, như vậy sẽ khiến con đỉa trong cơ thể cũng bị nhiễm độc mà chết, nhưng cách này chẳng khắc nào tự sát, toàn thân đỉa Campuchia ăn thịt người toàn là giác hút, những giác hút đó sẽ giúp nó bám chắc như keo trong cơ thể sống, không một loài trùng ký sinh nào có thể bì kịp với nó, cho dù bạn nôn thốc nôn tháo hết cả gan xanh mật vàng, thì cũng chẳng thể nôn ra nổi con đỉa đang bám diết trong bụng.

Tư Mã Khôi thấy mọi người xung quanh thần sắc đầy vẻ tuyệt vọng, anh cũng không khỏi trấn động tâm kinh, tuy anh chẳng sợ chết, nhưng cũng không cam tâm bị đỉa hút cạn huyết tủy mà khô quăn queo, sau đó thi thể còn chìm trong nước và trở thành sào huyệt đẻ trứng của đĩa chúa nữa.

Nhìn thân mình đỉa Campuchia ăn thịt người chi chít những giác hút, bỗng dưng trong óc anh lại thấp thoáng hiện lên hình ảnh kỳ dị của con rết, liền sau đó lại liên tưởng đến việc Triệu Lão Biệt tìm thấy viên ngọc Định Phong cạnh cái xác con rết trong chiếc án mục nát năm xưa.

Đến tận bây giờ, anh vẫn còn nhớ như in hình ảnh Triệu Lão Biệt với một thân kỳ thuật uyên thâm, khả năng nhận thức vạn vật muôn loài trên thế giới bội phần cao siêu.

Nếu giờ đây lão chưa chết, nói không chừng có thể giúp anh nghĩ ra cách hay nào đó, giải quyết con đỉa nước nữ hoàng đang ký sinh trong cơ thể mọi người.

Theo lý, sau khi Tư Mã Khôi mang dòng tộc lục lâm, anh được mật truyền toàn bộ bí kíp Kim bất hoán, Văn Võ sư phụ anh bái làm thầy lúc còn ở nhà, được mệnh danh là “ma men Trương Cửu Y”, có người gọi ông là “Trương bọ cạp” hoặc “Lão bách khoa toàn thư”.

Ngoại trừ món bản lĩnh tủ “Bọ cạp đảo đầu bò tường” ra, thì ông còn rất giỏi đàm đạo về phương thuật, chỉ điểm cát hung.

“Mật truyền Kim điểm” mà tổ tiên họ Trương lưu lại chính là gốc rễ khởi nghiệp của gia tộc, được chia thành ba phần “Thiên, Địa, Nhân”, từ trước đến nay chỉ truyền cho người trong tộc, không truyền cho người ngoài.

Đến thời Trương Cửu Y, cả cuộc đời chỉ dạy dỗ cho hai truyền nhân trực hệ trong gia tộc, người thứ nhất là cháu đích tôn của dòng họ, có điều gã này tính tình thuần phát, ù ì, ông Trưởng Cửu Y chẳng mấy xem trọng hắn ta, nên không truyền thụ thuật suy diễn biến hóa, chỉ truyền cho một số khẩu quyết xem bói, rồi khéo léo đuổi hắn về quê nhà làm nông.

Truyền nhân mà Trương Cửu Y xem trọng lại chính là Tư Mã Khôi, bởi anh nhanh nhạy, cơ trí, cốt cách thanh thoát, tướng mạo thân hình đều có thể “trấn áp” được kẻ khác, lại giỏi ăn nói, giảo biện, từ ngữ sắc bén, tâm thuật cũng chính phái.

Theo cách nói của giới lục lâm, người như thế có thể vượt qua phong ba bão táp, bảo vệ được bí mật gia truyền, gặp lúc thất thủ cũng không bán đứng đồng bọn và thế tộc, vì vậy ông mang tất cả tuyệt kỹ nhét tận đáy hòm nhà họ Trương truyền thụ tuốt tuột cho Tư Mã Khôi.

Chỉ có điều, lúc đó Tư Mã Khôi tuổi hãy còn quá nhỏ, đến khi bước được chân ra ngoài xã hội bươn trải thì lại không gặp thời, khiến bản lĩnh gia truyền bị lơ là, bỏ quên trong nhiều năm.

Lúc này, anh bất chợt nghĩ đến sự việc gặp Triệu Lão Biệt năm xưa, lại liên tưởng đến cuộc đời tà môn ngoại đạo của lão, thấy rằng lão có những khả năng mà người thường khó lòng vươn tới được.

“Mật truyền Kim điển” mà tổ tiên mình để lại là bộ cổ thuật “tỏ tường mọi ngách, lừng danh bốn bể”, vậy sao mình lại phải chịu thua kém người ta?

Nhưng rốt cục làm sao mới có thể dùng lý lẽ “tướng vật” trong “Kim bất hoán” để trục xuất đỉa chúa đang ký sinh ra khỏi cơ thể?

Ý niệm này tuy rằng chỉ lóe lên trong khoảnh khắc, nhưng anh cũng đã lờ mờ hiểu, cái gọi là “vật cực nhi phản, số cùng tắc biến”, rốt cục có ý là trời chẳng bao giờ nỡ tuyệt đường sống của con người.

Anh cho rằng chỉ cần tìm ra nhược điểm của đỉa Campuchia ăn thịt người trong thời gian cực ngắn, thì có thể những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm sẽ có cơ hội thoát khỏi bàn tay tử thần.

Trong lúc Tư Mã Khôi đang vắt óc suy nghĩ, ánh mắt anh chợt chạm phải Thảo Thượng Phi.

Gã đang ngước đầu lên, nhìn chằm chằm vào một thân cây cổ thụ với thần sắc hoảng hốt, thất thần.

Lúc này, Thảo Thượng Phi gầy héo như bị thoát xác, hốc mắt lóm sâu hoắm vào trong, miệng ú ớ chẳng nói thành lời.

Ngọc Phi Yến lo lỡ đâu gã đột ngột ra tay làm người khác bị thương, nên lấy dây thừng trói gã lại.

Tư Mã Khôi cũng ngẩng đầu dõi mắt theo hướng nhìn của Thảo Thượng Phi, chỉ thấy trên đó tối hù hù, chẳng nhận thấy có điều gì khác lạ.

Lúc đó, Ngọc Phi Yến nói với mọi người:

“Mọi người đã chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, thì nhân lúc thần trí vẫn còn minh mẫn, hãy mau chóng tránh xa sào huyệt tập trung của lũ đỉa chúa”.

Tư Mã Khôi lại nói:

“Thủ lĩnh, cô thử nói xem vì sao Khương sư phụ lại dẫn đội thám hiểm trở về sào huyệt của đỉa Campuchia ăn thịt người?

” Ngọc Phi Yến đáp:

“Chẳng phải anh nói Khương sư phụ bị trúng tà sao?

Người chết giống như ngọn đèn đã tắt, bây giờ anh lại trách cứ người ta, phỏng có ý nghĩa gì?

” Tư Mã Khôi nói:

“Tôi đoán, chắc ở gần chỗ này ẩn giấu một vật gì đó, vật ấy dụ dỗ Khương sư phụ, hoặc giả dụ dỗ con vật ký sinh trong cơ thể ông ấy trở về đây.

Có lẽ đúng là mệnh chúng ta chưa hẳn đã tuyệt, nói không chừng vẫn tìm thấy một con đường sống cũng nên”.

Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy việc này rất đỗi kỳ quái, đáng nghi, trong dải rừng rậm âm u chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời này, môi trường ẩm ướt ô uế, tuy khiến người ta cảm thấy ngột ngạt, bức bối nhưng không biết vì nguyên do gì mà trong không gian dường như phảng phất một mùi hương vô cùng quái dị, chẳng rõ đó là mùi thơm của hươu xạ hương hay của gỗ trầm hương, không những vậy càng ở nơi cao thì mùi thơm càng nồng đượm.

Cô nhìn những cây cổ thụ cao ngút ngàn đến tận trời, trong lòng tự thấy bất lực:

tay không làm sao mà leo tới đó được?

Trong lúc đang định tìm loại công cụ leo núi nào đó để trợ giúp thì chẳng ngờ đã thấy Tư Mã Khôi buộc đèn Halogen lên người, rồi liền đó thi triển tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường” bám thân cây leo ngược lên.

Tuy vết thương trên vai anh chưa lành hẳn nhưng thân thủ vẫn nhanh thoăn thoắt như gió cuốn, khiến những kẻ ở dưới đất nhìn lên chỉ biết trợn mắt há miệng mà kinh ngạc và thán phục, người nào người nấy nhìn chằm chằm không rời mắt, chẳng dám phát ra tiếng động, ngay cả hơi thở cũng cố gắng thật khẽ khàng.

Thân thể Tư Mã Khôi rốt cục vẫn đang bị thương, bò lên tới tán lá thì hai vai đã cảm thấy tê cứng, đau buốt, anh nhìn thấy trong hốc cây cổ thụ có một cái hố giống như hang động vật, trong hố phủ đầy rêu xanh dày bì, không khí âm u, lành lạnh thấu cả xương, lấy đèn soi vào, chỉ thấy bên trong cất giấu những quả trứng mãng xà, quả nào quả nấy to như nắm đấm, thì ra đây là sào huyệt của con ô xà Miến Điện bị bình phun lửa thiêu cháy lúc trước.

Anh thò tay ra sờ ba trái trứng trắng đục, cất chúng vào trong lòng, rồi nhẹ nhàng chuồn xuống dưới.

Trong lúc còn chưa rõ sống chết ra sao, lại thấy Tư Mã Khôi lẻn lên cây lấy cắp mấy quả trứng mãng xà, hội Ngọc Phi Yến cảm thấy tên này quá nửa là chuẩn bị phát điên.

Tư Mã Khôi nhìn thấy ba quả trứng trong lòng bình an vô sự thì mới trút được tiếng thở mạnh, anh cẩn thận nâng niu từng quả trứng, bày chúng lên mặt đất, nhìn sắc mặt mơ hồ khó hiểu của mọi người, anh đành phải giải thích:

“Muốn trục xuất con đỉa chúa đang sống kí sinh ra khỏi cơ thể, chỉ có thể kỳ vọng vào vật cứu mạng này thôi”.

Gã Gấu trắng người Nga thấy vẫn còn cơ hội sống, tinh thần phấn chấn lại ngay tức thì, nhưng trước mắt chỉ có ba quả trứng mãng xà, mà những kẻ sống sót còn những bảy người, cháo ít vãi nhiều, chẳng thể nào chia đủ, chắc chắn bốn người trong số họ phải chết, làm gì có chuyện gã để tâm đến những kẻ xung quanh, lập tức thò tay ra cướp, định bụng sẽ nuốt chửng một quả vào bụng.

Nhưng phản ứng của Tư Mã Khôi còn lanh lẹ gấp bội, chẳng để gã Gấu trắng người Nga kịp đến gần, anh đã thi triển chiêu “Phu tử tam thúc thủ”, đẩy lùi bàn tay to phàm phàm như chiếc quạt Ba Tiêu của gã, nhưng trong thời khắc gấp gáp, giành giật từng giây giữa sự sống và cái chết, Tư Mã Khôi không muốn quyết một trận sống mái với gã, chỉ xua tay, ra hiệu cho đối phương đừng hòng tiến lại gần, lại làm động tác vuốt cổ, ngầm nói với mọi người tuyệt đối không được ăn “trứng mãng xà”, nếu không sẽ càng chết nhanh hơn.

Gã Gấu trắng người Nga bình sinh sức khỏe vô địch, giết người chẳng khác chi giết một con gà, hắn cứ nghĩ chỉ cần thò tay ra là cướp được trứng rắn, nào ngờ lại lấy hụt, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy bất ngờ, chẳng biết gã phương Đông này sử dụng tà thuật gì, gã khoằm cặp mắt hung tợn gườm gườm nhìn Tư Mã Khôi, nhưng chẳng dám manh động thêm nữa.

Những người còn lại đều biết rõ tập tính của mãng xà Miến Điện, con cái mỗi năm phải sinh hàng trăm trứng, ba quả trứng mà Tư Mã Khôi vừa lấy từ trên ổ rắn xuống sờ vỏ ngoài nhẵn nhụi trắng mịn như ngọc, xem ra chúng chỉ là những trái trứng bình thường, chưa được thụ tinh.

Tư Mã Khôi nói chúng có khả năng giúp họ trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơi thể, nhưng lại nói không được đập vỡ hay nuốt chửng, chẳng lẽ vật này dùng để xoa đắp ngoài da?

Hồi 4 :

Cuồng phong giông tố Tư Mã Khôi tự biết mạng sống của mọi người giờ đây mong manh tựa ngàn cân treo sợi tóc, nên cũng không dám giải thích dài dòng, chỉ cầm một trái trứng mãng xà đặt xuống phía trước, lần lượt huơ huơ trước mũi hội La Đại Hải, Tuyệt, Ngọc Phi Yến.

Trong giây lát, mọi người đều ngửi thấy một luồng khí thanh thoát thơm nồng quyện vào tận tim phổi, không thể tả hết cảm giác dễ chịu thoải mái, ai nấy không nhịn nổi càng kỳ lạ thắc mắc:

“Trứng mãng xà Miến Điện sao lại có mùi thơm kỳ diệu đến thế nhỉ?

” Chẳng kịp đợi mọi người hiểu rõ, Tư Mã Khôi liền đập vỡ từng quả, đùn thành một đống nhầy nhụa trên mặt đất.

Một mùi hương kỳ lạ, đậm đặc lập tức lan tỏa khắp không gian, khiến ai nấy không cưỡng nổi, định bò xuống đất liếm đám lòng trứng.

May mà nhận thức của Tư Mã Khôi còn vô cùng tỉnh táo, anh là người đã được luyện khí công, khả năng định thần hơn hẳn người khác.

Anh đứng bên ngăn cản hành vi của mọi người, không để bọn họ tiếp cận đám trứng vỡ.

Khoảng nửa phút sau, mọi người đều cảm thấy có một vật lạ ngọ ngoạy nhúc nhích trong cổ họng, buồn buồn ngứa ngứa không thể chịu nổi, gã Gấu trắng người Nga và Thảo Thượng Phi khô quắt, vàng vọt như cương thi là hai kẻ không chịu nổi trước tiên, bọn họ cùng lúc “ọe” lên một tiếng, mỗi người đều nôn ra một con đỉa ký sinh, dài gần hai mươi mấy centimet, thân thể trong suốt, vằn vện những vạch đỏ au au, to như cánh tay trẻ con, toàn thân chi chít giác hút rỏ máu ròng ròng, bọn chúng nhào xuống đám dịch lỏng dấp dính, thân đỉa cuộn lại quét một đường đã hút hết một nửa lòng trứng trên mặt đất.

Mấy người còn lại kẻ trước người sau đều nôn ra con đỉa ăn thịt người ký sinh trong cơ thể, chỉ thấy sau khi đỉa chúa hút sạch đám trứng mãng xà trên mặt đất chẳng bao lâu, thì trở nên cứng đờ, nằm im bất động, rồi hóa thành một đống máu đặc.

Lúc này, mọi người lại ngửi đám vỏ trứng còn sót lại trên mặt đất, chỉ cần hơi lại gần một chút là một mùi khí tanh nồng lộng vào tận óc, ghê tởm, khó ngửi vô cùng, chẳng còn cảm giác thanh ngọt, thơm ngon như lúc trước nữa.

Mọi người sống sót sau kiếp nạn, người nào người nấy mặt trắng bệnh như giấy, thở dốc một hồi lâu, các giác quan dần dần khôi phục, càng nghĩ càng cảm thấy rùng rợn.

Cả đội vốn nghĩ phen này chắc chết không còn nghi ngờ, may mà Tư Mã Khôi nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết thần kỳ trong lúc nguy cấp, mới nhặt được mạng sống trở về, nếu chỉ chậm trễ thêm vài phút nữa, để con đỉa trong cơ thể kịp thành hình, thì e rằng bây giờ tất cả đã vạn nạn rũ áo về trời.

Lúc đầu, Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng giờ đây nhìn kế sách cứu mạng quả đúng có thể thông hành, trong lòng cảm thấy bội phần may mắn.

Anh còn muốn cứu những tên lính vũ trang Miến Điện tháo chạy khi trước, bèn kéo Karaweik chạy ngược về sau đuổi theo.

Chỉ cần ven theo khe cốc tìm kiếm khoảng mấy dặm, đã phát hiện mười mấy tên lính vũ trang Miến Điện đang bị lạc đường bởi hơi thở của rừng sâu, không những vậy, bọn họ chạy chẳng bao xa, cũng moi ra mấy quả trứng mãng xà trong huyệt đá, hốc cây gần đó.

Sau khi nuốt chửng vào bụng, đỉa chúa trong cơ thể càng lớn nhanh gấp bội, chẳng bao lâu đã rít hết não tủy và tinh huyết quanh người.

Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh chết của mấy tên Miến Điện, thực sự cảm thấy trấn động kinh tâm, núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, tuy rằng bản thân đã thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng không biết có bao nhiêu hung hiểm đang chờ đợi ở phía trước.

Anh lo lỡ lạc mất mấy kẻ sống sót trong đội thám hiểm, chẳng thể bận tâm đến mấy xác chết ấy thêm nữa, liền vội vã quay đầu trở lại tìm hội Tuyệt và La Đại Hải, đồng thời thuật lại tóm tắt kết quả của đám lính Miến Điện cho Ngọc Phi Yến nghe.

Ngọc Phi Yến liệu định trước, sau khi mấy người Miến Điện kia bị trúng ngải đỉa, chắc chắn không thể sống mà chạy thoát khỏi núi Dã Nhân, nên chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này.

Có điều cô ả lại đặc biệt trăn trở trước sự thành bại, đồng thời tự đánh giá mình rất cao, không bao giờ chịu gục ngã, giờ đây đã chấp nhận phi vụ mạo hiểm này, thì cho dù có gặp sóng gió nguy hiểm lớn hơn nữa cũng vẫn vọng đồ tiếp tục dấn thân vào sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân.

Ngọc Phi Yến vẫn nhớ, khi nhìn thấy bức màn sương mù mỏng tang ở nơi sâu trong sơn cốc, cũng chính là khi có thể bắt gặp di hài voi rừng bất cứ lúc nào, chỉ cần đi theo dấu tích ấy mà tìm “huyệt động ma mút” sẽ đồng nghĩa với việc tiếp cận khu vực nơi chiếc máy bay vận tải không quân Anh bị mất tích.

Giờ đây đã giải trừ được hiểm họa đỉa Campuchia ăn thịt người, thì làm gì có chuyện cô ả chịu đứt gánh giữa đường.

Có điều, tuy rằng thuộc hạ Thảo Thượng Phi của Ngọc Phi Yến đã bảo toàn được tính mạng nhưng lại trở thành phế nhân, đội thám hiểm trước mắt ngoại trừ thủ lĩnh là cô ả ra thì chỉ còn lại một mình gã Gấu trắng người Nga kia mà thôi, nhưng tay ngoại quốc này lạnh lùng tàn nhẫn, trở mặt thất thường, không đáng tin cậy chút nào.

Ngọc Phi Yến đã chứng kiến bản lĩnh của Tư Mã Khôi, cảm thấy con người này quả thực tuyệt luân vô song, nhiều điểm hơn người, nếu có thể biến anh ta thành người của mình, thì “hàng” trong chiếc tiêm kích vận tải kia coi như đã nằm trong tầm tay, nghĩ đến đây, cô ả liền quay sang ngọt nhạt với Tư Mã Khôi:

“Ơn cứu mạng, tôi không dám nói bằng lời…” Chưa nghe xong, Tư Mã Khôi đã vội vàng từ chối:

“Tàu hỏa có chạy nhanh cũng là do đầu tàu kéo.

Cô là thủ lĩnh của chúng tôi, tôi cứu cô là lẽ đương nhiên, không cần phải cám ơn.

Cho dù cô tình nguyện mang thân ra đáp đền, tôi đây cũng chẳng dám nhận”.

Ngọc Phi Yến đang định mở lời, thì bị Tư Mã Khôi chặn họng làm cho ê mặt, cô ả không nén được cảm giác vừa thẹn vừa giận, liền nạt nộ:

“Anh muốn chết thế nào?

Nhưng chuyển ý niệm nghĩ lại:

“Gã này đối xử với ai mà chẳng ngang ngược, vô lại như thế, bây giờ là lúc mình đang cần dùng người gấp, thôi thì cứ tạm thời nén giận mà bỏ qua cho hắn”.

Thế là cô ả cố gắng áp chế lửa giận, nhỏ giọng nói:

“Anh đã coi tôi là thủ lĩnh, vậy hẹn ước ban đầu của chúng ta, anh còn giữ lời hay không?

” Tư Mã Khôi nghe mấy lời này, thì biết Ngọc Phi Yến chưa chịu nhụt chí từ bỏ, mà vẫn muốn tìm tông tích của chiếc máy bay tiêm kích, trong lòng thầm nghĩ:

“Tôi cứ tưởng mình chính là một kẻ liều mạng, ai ngờ cô còn bất cần mạng hơn cả tôi.

Phi vụ này hung hiểm quá lớn, chi bằng nhân lúc sớm nhận ra tử khí u ám, mình nhanh chóng xù nợ cho xong”.

Nhưng Tư Mã Khôi lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, quả thực chẳng còn đường lui mà thoát thân, do tình thế thúc ép, cũng đành chui vào đường chết, chỉ hi vọng Ngọc Phi Yến có thể mang theo Karaweik rời khỏi biên giới Miến Điện.

Nếu được như vậy, thì bất luận đối phương tiến hay lùi, anh cũng cam tâm tình nguyện dùng tính mạng đền đáp, có điều anh vẫn có ý muốn bàn bạc kỹ lại với hội La Đại Hải rồi mới quyết định.

Tư Mã Khôi dứt lời, liền đi xem tình hình phía La Đại Hải và Tuyệt, hai người bọn họ cũng giống anh, đều chẳng gặp trở ngại gì lớn lắm, chỉ là mất chút máu, cảm thấy tinh thần kiệt quệ, trên người dường như không còn sức lực.

La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi đi đến, thì than thở:

“Hôm qua tớ còn hoài niệm mãi về món trứng xào cà chua ở khách sạn Lục Quốc chỗ mình, nhưng bây giờ nghĩ đã thấy tởm, chắc suốt quãng đời còn lại, tớ chẳng dám động đến cái món đó nữa”.

Tư Mã Khôi cũng xoa đầu an ủi bạn:

“Thực ra tớ thấy món trứng cũng chẳng có gì ngon bổ mấy, chẳng qua nó chỉ là vật bị gà mẹ xảy thai tọt ra mà thôi, từ trước đến nay tớ chả bao giờ thèm động động đũa”.

Lúc này, Tuyệt vẫn chưa hồi tâm định thần nổi, cô run giọng nói:

phen này may mà có Tư Mã Khôi, tôi còn nhớ trong một cuốn sách y học có nói:

‘Ăn lông uống máu vốn là phong tục của người thượng cổ.

Giờ đây, người hiện đại chúng ta đã quen với việc ăn chín uống sôi, nếu không trong bụng tất sẽ nảy sinh giun sán, nhẹ thì tổn hao huyết khí, nặng thì mất cả tính mạng’.

Hai năm trước, khi tôi theo nhóm đặc vụ hành nghề ở Mandalay, từng chữa trị cho một thiếu niên mười mấy tuổi người bản địa.

Thiếu niên đó thân hình gầy như que củi, chỉ có hộp sọ và bụng là phình to khác thường.

Khi cậu bé bước đến trước mặt tôi thì đột nhiên đi hơi gấp một chút, rồi đầu cậu bé tự dưng từ cổ lăn lông lốc xuống đất, điều kỳ lạ là chẳng hề thấy máu chảy ra.

Tôi lại gần kiểm tra thi thể, mới phát hiện trong cổ họng cậu bé bò lổm ngổm cơ man nào là đỉa, phần bụng và sọ não còn nhiều hơn.

Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, sau đó dò hỏi mọi người xung quanh mới hay, thì ra cậu bé thường ăn ốc vớt được dưới sông, nhưng do nấu không kỹ, cho nên đỉa ký sinh trong con ốc đều chui vào cơ thể cậu bé.

Hoặc giả lúc đầu liều mạng mà cho cậu bé uống chút thuốc độc vừa phải, may ra còn có thể cứu chữa, nhưng chỉ cần đỉa chui vào não hoặc thành hình trong bụng, thì cho dù ngay cả Hoa Đà có tái thế sống lại, cũng đành bó tay.

Tư Mã Khôi không đề cập đến việc mình sử dụng huyền thuật “tướng vật” của tổ tiên truyền lại, chỉ nói tôi đây chẳng qua là hạng gà mờ, tay chiêu, những loại tà thuật cài đặt khắp nơi ở Thái, Lào, Campuchia v.

v… tuy rằng đồn đại nghe có vẻ vô cùng quái dị, kinh khủng nhưng chỉ cần lật tẩy căn nguyên, tìm được cách khắc chế đối ứng, thì trong đó chẳng còn gì đáng gọi là bí mật nữa.

Tuyệt nghe xong, vẫn thán phục không ngớt, cô hiểu tập tính ký sinh của loài đỉa hút máu, nên nói với Tư Mã Khôi, những người từng bị đỉa chúa ký sinh trong cơ thể, khí huyết suy tổn nặng nề, nhưng cũng chính vì vậy, chỉ cần trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người đang ký sinh ra ngoài, thì nội trong mấy ngày gần đây, không cần lo sợ trong bụng lại nở ra đỉa, giờ đây những vũng tù trong rừng rậm không còn uy hiếp chúng ta được nữa, nhưng cơn bão nhiệt đới Buddha có thể ập đến bất cứ lúc nào, nếu còn chần chừ ở lại trong núi, thì sớm muộn cũng bị nước lũ nuốt chửng, tiếp sau đây nên đi đâu về đâu, phải mau chóng quyết định mới được.

Tư Mã Khôi gật đầu nói, tiêu trừ được đỉa Campuchia ăn thịt người chẳng qua là tạm thời khắc chế một trong số vô vàn hung hiểm tiềm ẩn ở núi Dã Nhân.

Chỉ riêng hiểm họa này cũng đủ khiến hơn tám mươi phần trăm thành viên của đội thám hiểm phải bỏ mạng, nếu tiếp tục truy lùng tông tích chiếc máy bay không quân Anh dưới vực sâu khổng lồ, e rằng sẽ còn phải trả giá đắt hơn, nhưng hiện nay thời tiết chuyển biến ác nghiệt, môi trường cũng càng ngày càng trở nên phức tạp, cho dù có quay về theo đường cũ thì cũng không chắc an toàn thoát thân, chỉ còn cách chặt đứt đường lui, quyết tâm tiến lên phía trước, liều mạng sống chết một phen, may ra mới có cơ hội thành công.

La Đại Hải cũng nói:

“Mấy năm ở Miến Điện, chỉ dặt làm mấy việc thất đức đốt nhà, giết người, chưa từng chính thức giúp đỡ bất cứ ai, bây giờ gặp cơ hội hiếm có, ông Hải đây đương nhiên chẳng còn lời nào phải bàn thêm”.

Sau khi ba người đã quyết định đâu vào đấy, Tư Mã Khôi liền đi đến nói với Ngọc Phi Yến:

“Bốn người bọn tôi đều là những kẻ một thân một mình, chẳng có ai phiền lụy, níu kéo, thôi thì cứ theo cô đi một hơi đến tối cho xong”.

Ngọc Phi Yến liền cất lời cảm tạ:

“Cám ơn các vị không chê cười và cũng cảm ơn tấm thịnh tình sâu sắc của quý vị.

Chỉ có điều hi vọng các vị quân tử nhất ngôn, về sau không được thay đổi, trở mặt.

Từ giờ phút này, chúng ta là những kẻ cùng hội cùng thuyền, hoạn nạn có nhau”.

Cô ả thấy con đường phía trước ngập tràn chông gai, hung hiểm, nên không dám lơ là, đoạn lệnh cho mọi người mau chóng chỉnh đốn hành lý còn sót lại.

Khi đi vào núi, đội thám hiểm mang theo lượng lớn trang thiết bị, nhưng trong lúc hỗn loạn, tan rã đã thất lạc không ít, điện đài cũng bị bình phun lửa thiêu hỏng.

Giờ đây chỉnh đốn hành lý, thì chẳng còn mấy chân khuôn vác người Miến Điện, nên mọi người đành cố gắng mang càng nhẹ càng tốt, những gì có thể bỏ lại đều đem vứt hết.

Gã Gấu trắng người Nga tự chất lên vai một túi to, nhét đầy “dây dẫn nổ, ngòi nổ, thuốc nổ, khoan hơi”, Tư Mã Khôi cảm thấy dưới lòng đất trong khe cốc sâu có sương khí che chắn tầm nhìn, những thiết bị chiếu sáng là vật không thể thiếu, nên nhặt thêm mấy cái đèn Halogen, đèn pin tụ quang, pin đèn, pháo tín hiệu, pháo sáng v.

v… nhét vào túi, những người còn lại đều chỉ mang những loại vũ khí cần thiết và lương khô dạng bánh.

Ngọc Phi Yến bảo La Đại Hải mang nốt chiếc bình phun lửa còn lại để đề phòng bất trắc.

Nhưng La Đại Hải một mực không chịu, nói là các ông đây “lúc đánh Lashio, khi xuống Lalaung, đột phá vòng vây ở Ayeyarwady, tắm máu Mandalay”, có trận đánh lớn nào chưa từng gặp qua?

Trong rừng sâu tuy đầy hung hiểm nhưng chỉ cần dựa vào bản lĩnh chính mình và dao súng trong tay, cũng đủ để đối phó với chúng, chứ cần gì đến bình phun lửa.

Hơn nữa, nếu lỡ ra món đồ chơi ấy mà phát nổ, thì Hải ngọng tôi chẳng phải số xui tận mạng hay sao?

Cô cứ nhìn mấy vị bị nó thiêu sống thành tro lúc nãy mà xem, đến hình hài cũng chẳng còn, e rằng xuống tới âm tào địa phủ, ngay cả Diêm Vương cũng chẳng thể nhận ra họ là ai.

Nếu cô còn cứ khăng khăng bắt tôi vác nó, thì chẳng thà cứ cho đạn lên nòng “pằng” một cái là xong, bắn vài phát cùng lắm trên người cũng chỉ mọc thêm vài cái lỗ, chết như vậy tôi còn thấy nhanh gọn hơn nhiều.

Ngọc Phi Yến không ngờ lại bị đáp trả lắm điều như thế, đành phải gạt bỏ ý niệm ấy đi.

Lúc này Thảo Thượng Phi nằm trên mặt đất đã khôi phục lại một chút thần trí, sau khi hỏi rõ tình hình, gã biết nếu bị bỏ rơi một mình ở nơi rừng sâu núi thẳm này thì khó mà tránh khỏi cái chết, gã lật bật cầu xin van nài thủ lĩnh, gắng sức vắt ra vài chữ từ kẽ hai hàm răng:

“Cầu xin thủ lĩnh, xin người mở lòng từ bi, cho tôi bảo toàn cái mạng già này…” Tuyệt không nỡ bỏ rơi Thảo Thượng Phi lại, mặc kệ gã tự sinh tự diệt, không đợi Ngọc Phi Yến đưa ra quyết định, cô đã tự mình dùng dao cắt hai đoạn dây rừng, tận dụng áo mưa và dây thừng, chế thành chiếc cáng tạm thời.

Cô cùng Karaweik, hai người khiêng hai đầu cáng nhấc bổng Thảo Thượng Phi lên, xong xuôi mọi việc mới chịu khởi hành.

Mọi người tiếp tục tiến về con đường ngoằn nghoèo tựa mê cung ở phía trước sơn cốc, từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu con voi rừng Miến Điện từng đặt dấu chân qua nơi này để bước vào huyệt động vùi xương của tổ tiên, trong đó có nhiều con vì năm dài sức yếu, hoặc bị hại trong rừng nên đã gục ngã giữa đường, những hóa thạch xương cốt còn sót lại chính là những tấm biển chỉ đường liên tục cho đội thám hiểm lần mò đến vị trí động huyệt ma mút.

Hội Tư Mã Khôi lần theo dấu vết của di hài voi rừng, đi khá sâu vào trong sơn cốc, đột nhiên từng cơn gió núi âm u lạnh buốt thổi đến.

Ngọc Phi Yến tự lẩm bẩm trong miệng:

“Bão nhiệt đới đến rồi…”, chỉ thấy màn sương mờ trong khe núi vén ra một nửa, tầm nhìn trở nên khoáng đạt hơn nhiều, mọi người dừng bước thăm dò tứ phía, nom trong lòng núi có rất nhiều huyệt động liên thông với nhau, trong động chất chồng cơ man nào là xương voi, chúng đè lên nhau tầng tầng lớp lớp, đống xương voi đó đã tích tụ bao đời, cao ngất ngưởng như những ngọn đồi gò, xương và ngà đan cài, xen lấn.

Nơi sâu nhất trong động huyệt ẩn chứa cửa đá, địa đạo, mặt đá được mài nhẵn nhụi, bằng phẳng như loại đá Đại Lí, gần như tất cả mọi nơi đều trang trí bằng những bức phù điêu, từ những vết tích dây leo và rễ cây xâm thực vào khe nứt của bức tường, có thể thấy nó đã có từ hàng ngàn năm trước, nhưng không rõ vì nguyên do gì mà tất cả những bức phù điêu đó đều bị phá hủy hoàn toàn, chẳng hề lưu lại chút thông tin nào cho hậu thế đọc hiểu.

Những bộ phận bị cố ý phá hại, hủy hoại dường như là một bức bình phong dày dạn chắc chắn, gạt không đi, chùi không sạch, ngầm che giấu những “bí mật” vô cùng vô tận của núi Dã Nhân.

Con đường địa đạo ăn thông ra ngoài núi, tận cùng là một cánh cửa bằng đá đã bị sụp mất một nửa, phía ngoài mọc đầy cây cối um tùm, những cây cổ thụ không hoa không trái cao to lừng lững một vòng tay ôm không xuể, tán lá rủ xuống đất, tứ phía sương khí quánh đặc bay là là, khiến tầm nhìn bị hạn chế nội trong vòng mười bước.

Đứng giữa mê cung thiên nhiên này, bạn dễ nảy sinh cảm giác không biết mình đang ở chốn nào.

Nghe tiếng sấm rền nổ ì ùng giao hòa lẫn nhau, thì biết cơn bão nhiệt đới Buddha đã bắt đầu những đợt tấn công đầu tiên.

Màn sương mù dày đặc bao trùm khắp núi Dã Nhân cũng bị cơn cuồng phong thổi cho tan tác, không gian xung quanh liền chìm vào màn đêm đen thui như ngày tận cùng của thế giới.

Tuy những rặng núi nhấp nhô cuối cùng cũng phải tạm thời trút bỏ tấm mạng trắng huyền bí ra khỏi gương mặt nhưng thay vào đó lại bị mảnh vải đen dày bì nặng nề che phủ kín mít.

Mọi người đành phải giơ tay ra sờ sệt trong bóng tối, dò dẫm từng bước lên chỗ cao hơn, đúng lúc đợi lên chỗ cao để nhìn xuống xác định vị trí khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, chẳng ngờ vừa định với tay lên sườn núi, thì đột nhiên “xoẹt” một dải trắng sáng như băng tuyết, một lằn chớp ngoằn nghoèo như rắn lượn vụt lóe lên phía đường chân trời.

Mọi người đều bị giật mình bởi tia sét, bất giác ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ lại thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bay rè rè ngay sát khoảng không trên đỉnh đầu, khoang máy tối hù hù, không một tia sáng, động cơ ở cánh máy bay đã ngừng hoạt động, cả chiếc máy bay giống như một “chiếc bóng đen” im hơi tịnh tiếng.

Trong cơn cuồng phong vần vũ dưới tầng mây đen, chiếc máy bay điềm nhiên bay lượn với độ cao rất thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa.

Đây quả thực là cảnh tượng ngoài sức tưởng tượng, dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt như vậy, tuyệt đối không thể có tay phi công nào đủ gan dạ lái máy bay phi hành qua khu vực này, ngoài ra chiếc phi cơ từ trong ra ngoài chẳng hề có ánh sáng, ngay cả tiếng quay của động cơ cũng hoàn toàn ngưng bặt, tất cả đều đen thui, im lìm như thể bên trong khoang chẳng hề có người sống.

Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như điện giật, trong ánh sáng chói lòa, trắng bệnh của những đường chớp, mọi người thấp thoáng nhìn thấy biểu tượng rắn đen trên thân máy bay.

Sấm chớp trườn qua vòm trời cũng chỉ trong thời gian nháy mắt, nên cho dù muốn phân biệt rõ ràng hơn chút nữa, thì xung quanh lại một lần nữa chìm vào màn đêm đen như mực.

Chiếc bóng máy bay ma quỷ giống như oan hồn kia cũng vụt biến mất vào bóng tối mênh mông.

Mọi người quá bàng hoàng trước những gì vừa nhìn thấy, ai nấy kinh ngạc đến mức miệng không khép lại được, nửa phút sau mới có thể định thần trở lại, chẳng ai hẹn ai mà người người nào người ấy đều giơ tay dụi mắt, còn cho rằng lúc trước chắc mình bị hoa mắt.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải vừa lượn vèo qua đầu khi nãy, trên thân có khắc biểu tượng con rắn đen với hình thù quái dị, rõ ràng nó hoàn toàn trùng khớp với chiếc máy bay trong ảnh.

Nếu phán đoán theo lẽ thường, thì chiếc tiêm kích vận tải rắn đen của không quân Hoàng gia Anh áng chừng đã mất tích ở núi Dã Nhân vào năm 1948, cách biệt một khoảng thời gian hai mươi mấy năm, làm sao nó có thể tiếp tục bay lượn giữa không trung trong khu vực núi cho đến tận hôm nay?

Khu vực lân cận phần đa đều là những vùng “sơn địa thấp” nhấp nhô, bị rừng rậm che phủ, theo độ cao phi hành khi nãy của chiếc máy bay, thì có lẽ nó phải bị va quệt vào những đỉnh núi, sau đó rơi xuống rừng rậm mới đúng, nhưng nhìn chăm chú một hồi lâu, phía trước vẫn chỉ là màn đêm u tịch, chẳng thấy xuất hiện âm thanh vang trời và ánh lửa ngùn ngụt bốc cháy do chiếc máy bay rơi phát nổ, nó như thể chưa từng thực sự tồn tại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng sấm kinh thiên động địa, rền vang khắp núi Dã Nhân.

Hồi 5 :

Stupa Sấm vang chớp giật, trấn động cả vùng núi hoang dã, mây đen dày đặc vần vũ khắp bầu trời, hốt nhiên xuất hiện chiếc tiêm kích vận tải lặng lẽ như bóng u linh, nó lượn qua đỉnh đầu mọi người, rồi lặng lẽ biến mất trong màn đêm thăm thẳm.

Có người nhiều lần từng nhìn thấy bóng dáng những “con tàu ma” lảng vảng trong khu vực tam giác Bermuda, cũng có những quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm mấy chục năm về trước, đến nay vẫn lởn vởn ngao du trên mặt biển.

Nhưng từ trước đến nay chưa hề nghe ai nói, trên bầu trời sẽ xuất hiện một chiếc “máy bay u linh” đã mất tích từ hơn hai mươi năm trước.

Trên mỏm núi, đội thám hiểm ai nấy đều tròn mắt kinh ngạc nhìn chăm chú, quả thực khó mà tin được những gì vừa nhìn thấy, lẽ nào chiếc máy bay vừa lượn sát mặt đất khi nãy đúng là chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Anh bị mất tích trong khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân?

Rốt cục nó là thực thể hay u hồn?

hay chỉ là hình ảnh còn lưu lại từ mấy chục năm trước được truyền dẫn qua sóng điện mây mù, giống như chiếc bóng ảo ảnh xuất hiện bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng?

Ngọc Phi Yến thầm hoang mang trong lòng, giờ đây lại không có Khương sư phụ kinh nghiệm lọc lõi ở bên cạnh, cô càng cảm thấy đơn thương độc mã hơn bao giờ hết, không nhịn nổi liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi:

“Anh nghĩ vật chúng ta vừa nhìn thấy là vật gì vậy?

” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo:

“Cô là thủ lĩnh, lại là dân hối tử trộm mộ, chuyện người sống cô hiểu rõ hơn tôi, chuyện người chết cô cũng thông thạo hơn tôi, bây giờ đến cô còn chả biết thì tôi biết thế quái nào được?

” Ngọc Phi Yến hận Tư Mã Khôi đến nỗi nghiến răng ken két, nhưng cũng không biết phải làm sao:

“Bây giờ tôi cũng chẳng có cách gì giải thích, nhưng tôi thấy chiếc máy bay tiêm kích bay trên trời hình như hướng về mỏm núi phía đối diện, chúng ta đành bám đuôi xem rốt cục nó là gì, rồi phân tích phán đoán sau cũng chưa muộn”.

Tuy chưa đến lúc mặt trời lặn, nhưng dưới ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới cuồng bạo, trên đầu mây đen bủa vây, cả vòm trời đen thui như đít nồi, cho dù hai người đứng gần nhau mặt đối mặt, thì vẫn chẳng thể nhìn rõ đối phương, những dụng cụ chiếu sáng mang theo người giờ đây gần như không thể phát huy tác dụng.

Đội thám hiểm chỉ còn biết mượn ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi của những tia sét rạch ngang bầu trời, họ đi xuyên qua cánh rừng rậm um tùm, truy lùng theo phương hướng mất hút của chiếc bóng máy bay quái dị, gian nan tiến từng bước về phía trước.

Cơn cuồng phong ù ù gầm rít thét gào, cuốn cả cánh rừng nguyên sinh trong núi Dã Nhân vào vòng xoáy của nó, tiếng sấm réo ùng ùng ngầm dự báo cơn mưa dữ dội như trút nước sắp chuẩn bị tràn về.

Dưới sự công kích của cơn bão nhiệt đới hung bạo, gần như tất cả khu vực trong rừng đều trở nên nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có khả năng xảy ra lũ lụt, lở đất trượt đá.

Nhưng căn cứ theo ghi chép của không quân Anh để lại, thì khe cốc khổng lồ nằm ở phần bụng núi Dã Nhân, là một nơi có dải địa hình tương đối hiếm có, nó vốn là hẻm núi được hình thành do lòng núi khô cạn bửa ra làm đôi.

Nếu dùng cách miêu tả trực quan hơn, thì khe cốc khổng lồ này chính là một tòa động huyệt nằm ẩn sâu dưới lòng đất, có thể suy đoán, nó được hình thành bởi những mạch nước không ngừng lõm xuống từ hàng triệu năm trước, độ sâu lên đến hàng ngàn mét, hướng chạy của sơn động gần như vuông góc với mặt đất, cửa động tương đối nhỏ hẹp, càng vào trong càng rộng rãi hơn, đây là một hiện tượng địa chất vô cùng đặc biệt, nó không dễ bị lũ lụt từ những nơi thấp đổ về.

Đối với đội thám hiểm mà nói, trong điều kiện thời tiết ác nghiệt như hiện nay, chỉ cần nghĩ cách tránh không để đất đá trong lòng núi sụt lở rơi trúng người, thì vào sâu trong lòng động lại là biện pháp tương đối an toàn hơn cả.

Ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ, quanh năm sương khí mịt mù, chẳng ai rõ rốt cục đám sương mù dày đặc đó là thứ gì, càng không rõ căn nguyên xuất hiện của nó.

Mấy chục năm trước, chiếc tiêm kích vận tải của quân đội hoàng gia Anh rơi xuống núi, lại vừa vặn mất tích trong biển sương mênh mông.

Khi ấy, do ảnh hưởng của việc thay đổi thời tiết, vị trí của mây mù xuống tương đối thấp, có thể thấp thoáng nhìn thấy cửa động sâu hun hút của khe cốc, vậy mà trải qua một quãng thời gian dài, lượng sương mù từ nơi sâu trong khe cốc đã trào ra, phủ kín khắp phạm vi mấy chục dặm bán kính vuông, thành ra rất khó phán đoán vị trí của nó một cách chuẩn xác.

Đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, vốn định thông qua con đường Stilwell để tiếp cận khe cốc, như vậy sẽ tránh được những trở ngại do các nhân tố tự nhiên bao vây phía ngoài núi Dã Nhân gây nên, rồi từ động huyệt dưới lòng đất tìm kiếm lối ra bị sương mù che khuất.

Kế hoạch là vậy nhưng trong thời gian thực hiện lại có quá nhiều biến cố xảy ra, giờ đây khí hậu thay đổi dữ dội, trong biển cây cối xanh mênh mông, rất khó phán đoán chính xác phương vị.

Cả đội đành phải hành sự theo diễn biến tình hình thực tế, đổ ra truy lùng cái bóng bí ẩn của chiếc phi cơ ma quỷ biến mất sau mỏm núi.

Đây là đầu mối duy nhất hiện có trong tay, đồng thời cũng là tia hi vọng sống còn của cả đội.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải lần mò từng bước trong rừng rậm đi trước mở đường.

Tất cả những gì tầm mắt có thể nhìn thấy chỉ là tàn tích của những bức tường thành tan hoang sụp vỡ, trải qua bao bãi bể nương dâu, bị gió mưa xâm thực phá hủy.

Tháp cổ đổ nát khắp nơi, chỉ còn lại mỗi cái móng trơ gan cùng tuế nguyệt.

Thấp thoáng ẩn hiện dưới bức màn thảm thực vật um tùm dày kín là một bức tượng điêu khắc hình đầu người to lớn khác thường nằm đổ ngang trên mặt đất, từ sau những rễ cây cổ thụ đan kết ngoằn nghoèo chồng chéo lên nhau, đôi mắt tượng chiếu ánh nhìn đăm đăm khiến người ta không khỏi cảm thấy rợn tóc gáy.

Càng đi vào sâu, vết tích càng nhiều, rõ ràng trong những năm tháng xa xưa đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu, núi Dã Nhân quả thực từng có một thời đoạn lịch sử rất đỗi huy hoàng trần phong, rốt cục đó là nền văn minh hiển hách như thế nào?

Vì sao lại không hề có bất kỳ tài liệu ghi chép liên quan nào?

Và ai xuất phát vì mục đích gì mà cố tình hủy hoại tất cả những vết tích cổ xưa vốn có thể vén bức màn bí mật che đậy gương mặt thật của nó?

Dân gian Miến Điện lưu truyền một thuyết pháp:

“Để bảo vệ bí mật chôn vùi trong núi Dã Nhân, người xưa đã cài đặt trùng điệp những cạm bẫy và trở ngại, bất kỳ kẻ nào vọng đồ rình trộm bí mật này, đều dính lời nguyền tà ác, cho dù chết đi cũng khó lòng giải thoát”.

Bởi vậy người bản địa sợ núi Dã Nhân hơn cả sợ quỷ, không ai dám lại gần nó nửa bước.

Rất lâu trước đây, Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những truyền thuyết này, lúc đó anh còn không tin lắm, nhưng giờ đây khi bản thân cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, mới hiểu trong núi Dã Nhân quả thưc ẩn chứa quá nhiều bí mật.

Tuy anh tham gia quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện gần chục năm nhưng lại không biết rõ lắm về lịch sử cổ đại của Miến Điện, Campuchia.

Anh vừa đi vừa hỏi Ngọc Phi Yến ở phía sau:

“Theo cô, trong núi có mộ cổ không?

” Ngọc Phi Yến trả lời:

“Tôi chưa bao giờ nghe nói trong núi Dã Nhân có huyệt mộ gì cả, những nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam v.

v… đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, lăng tẩm các đế vương quý tộc trong lịch sự đều vô cùng chú trọng đến vấn đề “thành phủ thâm u”, tất cả những di tích mà chúng ta vừa gặp trên đường tuy rằng cổ quái nhưng không giống với hình dáng những loại tồn tại trong mộ táng.

Về điểm này, tôi khẳng định không thể nhìn lầm”.

Tư Mã Khôi nói:

“Nhưng ngọn núi sâu này lại có vẻ còn thần bí hơn cả thành phủ trong mộ cổ, xem ra việc tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích của quân Anh còn khó khăn gấp nhiều lần so với dự tính.

Theo tôi đoán, khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân quá nửa là tồn tại một vật gì đó mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi”.

Ngọc Phi Yến cũng có cùng linh cảm như vậy, cô gật đầu nói:

“Đúng là một cõi u mê tăm tối, nghe vô thanh, nhìn vô ảnh, thần quỷ khó lường…”, đang nói nửa chừng, bất chợt cuồng phong kẹp vô số những giọt mưa to như hạt đậu nành từ giữa không trung xối xả dội xuống, đánh rát cả mặt, mọi người không thể ngẩng mặt lên nổi, Ngọc Phi Yến hạ kính chắn gió trên mũ dã chiến xuống, sau đó đưa mắt nhìn lên nơi cao, thúc giục hội Tư Mã Khôi:

“Trận mở màn của Stupa đã bắt đầu, nếu các anh không muốn mất mạng, thì phải đi nhanh hơn mới được”.

Tư Mã Khôi biết, trong tiếng Miến Điện, “Stupa” là phiên âm của từ “Buddha”.

Nghe nói từ này bắt nguồn từ Ấn Độ, nước lân bang phía tây Miến Điện, chính xác hơn thì đó là tiếng Phàn của người Ấn Độ cổ, nghĩa gốc của nó vốn để chỉ tháp cổ, còn có nghĩa là ngôi mộ hình vuông hoặc hình tròn, bởi vì tháp ở Ấn Độ đều là những mộ phần để an táng thi hài các bậc thánh tăng hoặc nơi cất đặt xá lị Phật tổ.

Bởi vậy từ Buddha, ngoại trừ chỉ tháp Phật ra, còn ngầm có một tầng ẩn ý ám chỉ việc “mai táng”.

Chẳng rõ ai đã đặt tên cho cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương, di chuyển với tốc độ 140 km/h này là Stupa.

Nhưng theo thông lệ từ trước đến nay, phàm những cơn bão có tên hiệu liên quan đến thần phật, thì cấp độ đều không thể là loại nhỏ, nó chắc chắn sẽ mang theo thiên tai với quy mô nhất định.

Những nơi bão quét qua đều khiến nhà đổ cửa sập, ngay cả cây cổ thụ ngàn năm tuổi cũng bị nhổ bật gốc, sức tàn phá của nó giống như sức mạnh vô biên của Phật tổ, tát bể rời non, khiến chúng sinh chốn trần gian khốn đốn, không thể chống cự.

Miền Trung và miền Nam Miến Điện là khu vực đồng bằng bình nguyên, thuộc dải khí hậu nhiệt đới gió mùa mang theo mưa lớn, nhưng sang miền Bắc, địa hình bắt đầu thay đổi với hệ thống đồi núi phức tạp, càng ngược về Bắc càng xuất hiện nhiều núi cao vực thẳm, rừng sâu cốc hẹp.

Còn về khu vực núi Dã Nhân, thì hẳn là nơi đường xa, núi hiểm, từ xưa đến nay thủy chung rơi vào trạng thái tuyệt đối kín bưng.

Cơn bão nhiệt đới từ vùng ven biển cập vào đất liền, sau khi xuyên qua vùng bình nguyên rộng lớn ở Miến Trung, thì lại gặp sự cản trở của vùng sơn địa, khiến sức gió dần dần giảm xuống, bởi thế nếu là những cơn bão có quy mô nhỏ thì rất khó chạm tới núi Dã Nhân.

Nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới Buddha thực sự cuồng bạo, dữ dội chẳng khác chi Stupa, nên núi Dã Nhân Bắc Miến mới đành thúc thủ chịu sự khảo nghiệm hà khắc của trời đất.

Thảm thực vật sinh sôi nảy nở um tùm rậm rạp ở đây, cùng với vô số động huyệt nông sâu khác nhau đều là những tác nhân khiến địa tầng và lòng núi trở nên yếu ớt khác thường, nếu không tìm được nơi ẩn nấp an toàn thích hợp, thì dãy núi cao chập trùng bị rừng nguyên sinh che phủ này thực sự sẽ trở thành mộ địa chôn thây tất cả các thành viên của đội thám hiểm.

Tư Mã Khôi tự biết cân đối nặng nhẹ, hiểu rằng không thể lề mề chậm chạp, anh và Hải ngọng hai người đội mưa to gió lớn, liều mạng phạt đứt những lùm cây bụi dây leo rậm rịt cản đường, gắng sức leo lên các mỏm núi phía trên cao.

Tư Mã Khôi cũng liệu định trước, nơi sâu trong khe cốc ở núi Dã Nhân chắc chắn mai phục vô số hiểm nguy ghê gớm.

Trước đây, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm và phân đội cứu nạn đặc phái của quân đội đều đứt ở trong này, quân Anh, quân Mỹ hoàn toàn bó tay bất lực với nó, so với đội quân được trang bị vũ khí khoa học tối tân đặc biệt, thì mấy kẻ sống sót vừa may mắn bước ra từ lãnh địa của thần chết như hội anh có thể tìm thấy món hời gì ở nơi đây?

Nhưng tình thế ép người ta làm liều, biết rõ đã đi là chẳng còn đường về, nhưng cũng không thể không hô quyết tâm mà ngẩng đầu ưỡn ngực lao vào.

Đội thám hiểm dò dẫm đi từng bước nơi gần đường gờ của mỏm núi, trong cơn mưa như trút giăng mắc mịt mùng khắp cánh rừng, mượn ánh sáng của sấm chớp, mọi người nhìn thấy lòng núi dưới chân gồ đội lên như hình nón, trong khi chóp nón giống như bị ai đó phạt đứt, lộ ra một hẻm núi khổng lồ, rộng rãi, sâu hun hút, vết nứt không theo quy tắc vươn dài ra hai đầu Nam Bắc, dài đến mười mấy dặm, chỗ hẹp nhất cũng rộng không dưới trăm mét, giống như một cái miệng rộng ngoác, đen ngòm đang há to trên bề mặt núi, dường như cánh cửa thông với địa ngục đang mở ra ngay trước mắt.

Phần lộ ra trong lòng núi là những tầng nham thạch màu xanh đen, treo lủng liểng vô số loài dây leo, khiến nó trông càng sặc sỡ và quái dị hơn.

Mưa gió từng cơn nối tiếp từng cơn, khiến màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất bị tiêu tan hoàn toàn, nhưng ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân vẫn miên man mây mù, u tối mênh mông, chẳng thể nhìn thấy đáy.

Trước đây, mọi người không chỉ một lần thử tưởng tượng, xem khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân nơi chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích, rốt cục trông như thế nào, nghĩ đĩ nghĩ lại, thì chẳng qua cũng chỉ hình dung nó là một hẻm núi sâu trong lòng núi, nó chắc chắn không thể hùng vĩ nguyên thủy như hẻm núi Grand Canyon ở Mỹ, cũng không thể khí nuốt vạn tượng như thung lũng chữ thập ở Châu Phi, chỉ có điều nó là một động huyệt nằm sâu dưới lòng đất và hướng chạy dựng đứng mà thôi.

Nhưng đến tận thời khắc này, khi mọi người mạo hiểm băng qua làn mưa như thác đổ, đứng trên mép vực của sơn cốc, mới thực sự cảm nhận một cách sâu sắc về địa thế đáng sợ, nguy hiểm tột cùng của nó.

Những người từng tận mắt chứng kiến, đều không thể không kinh hoàng.

Bởi đứng trước nó sẽ khiến bạn vô thức nảy sinh ảo giác như thể đang đứng trước vực thẳm sâu vạn trượng, chỉ cần nhìn lâu một chút sẽ lập tức hoa mắt chóng mặt, dường như dưới lòng đất có một thế lực khủng bố vô hình nào đó đang tồn tại, khiến người ta lạnh thấu tim phổi.

Đó là cảm giác trấn động chân tâm khó có thể diễn tả bằng lời, là sự trống rỗng từ một nơi xa xôi, sâu thẳm nào đó trong linh hồn, là nội hàm to lớn không thể đo lường.

Hồi 6 :

Cường quang Cùng với sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha, mưa gió càng ngày càng trở nên hung bạo.

Quần thể thực vật trong rừng rậm nguyên sinh phân bố cao thấp, giao hòa vào nhau, một số thân cây có rễ ăn nông trên mặt đất, độ bảo vệ và bám víu không được chắc chắn lắm, liền bị cuồng phong thổi bật gốc, hoặc nếu không cũng bị phạt đứt ngang thân, một số thực vật khác to lớn lực lưỡng, sức sống tương đối bền bỉ dẻo dai hơn thì cũng bị cuồng phong quật nghiêng ngả theo luồng gió cuốn.

Giông tố cuồng phong và sấm vang chớp giật gầm réo khắp không trung, nuốt chửng tất cả âm thanh dưới vòm trời.

Hội Tư Mã Khôi đứng trên mép sơn cốc, tay bám chặt lấy mấy thân cây cổ thụ to đến một vòng ôm không xuể trên mỏm núi, nằm rạp xuống đưa mắt ngó xuống đáy hẻm núi, thì cảm thấy mưa gió mỗi lúc một mạnh bạo hơn, trận mưa này đúng chẳng khác nào đổ nước biển Đông, trút sông Ngân Hà, mỏm núi giờ không còn là chỗ có thể trú chân an toàn được nữa.

Nhờ vào ánh sét sáng trắng rạch ngang bầu trời, có thể nhìn thấy dây leo bám chằng chịt vào bức tường cổ trong lòng hẻm núi, vách treo dựng đứng, hướng đi gần như vuông góc với mặt đất, nơi sâu nhất mây mù dày đặc mênh mang, hoàn toàn che khuất tầm nhìn, dây thừng đội thám hiểm mang theo chỉ có hạn, mà cho dù buộc tất cả dây thừng lại với nhau, rồi thả xuống lòng động huyệt sâu không thể lường này, thì chắc chắn cũng chẳng thể vươn tới đáy.

Đang đợi tìm một chỗ có thể trèo xuống, nào ngờ chiếc cáng mà Tuyệt và Karaweik đang khênh không chịu nổi sức gió, vừa bị cuồng phong tạt một cái, phút chốc đã căng như cánh buồm, Thảo Thượng Phi đang nằm trong cáng, người gầy khô chỉ còn lại nắm da bọc xương, chẳng địch lại nổi, một trận cuồng phong quét qua khiến cả người lẫn cáng đều bị cuốn vào không trung, nhẹ như cánh hoa bay theo chiều gió.

Tư Mã Khôi phát hiện chiếc cáng tuột ra khỏi tay Tuyệt, ngay sau đó nhìn thấy một bóng người vụt qua trước mắt, liền vội vàng giơ tay định bắt, nhưng lại tóm hụt, trong cơn cuồng phong giông tố mà cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, trước mắt chỉ nhìn thấy một màn đêm đen xì xì, trong chớp mắt đã chẳng nhìn thấy thân thể Thảo Thượng Phi rơi về phương nào.

Tư Mã Khôi khẽ thở dài, lòng thầm nghĩ nếu có trách thì chỉ biết trách cái tên Thảo Thượng Phi đặt không hay, kiếp sau có lẽ nên đổi là “Trùy ngàn cân” mới thỏa đáng.

Lúc này, khu vực gần mép núi đã chẳng thể trú chân được nữa, may mà còn nhìn rõ địa hình, mọi người đang định đội mưa gió rút lui xuống sườn núi, tìm một nơi nhỏ hẹp bằng phẳng hơn tiến xuống đáy sơn cốc, nhưng dưới áp lực của gió bão hung dữ, ngay bước chân cũng không di chuyển nổi, cả cây cổ thụ đang bám trong tay cũng bị gió thổi ngả nghiêng như muốn đổ gục, giờ đây đúng là tiến thoái lưỡng nan.

Ngọc Phi Yến nhận thấy trên núi quá sức nguy hiểm liền vội vàng huých Tư Mã Khôi, ra hiệu cho mọi người phải tức khắc mạo hiểm bò xuống dưới sơn cốc.

Tư Mã Khôi cũng biết đây là kế sách duy nhất có thể thực hiện trong lúc này, liền nắm lấy tay Karaweik, bảo cậu bé hãy theo sát mình, rồi tóm lấy một sợi rễ cây cổ thụ to như cánh tay người, từ từ tụt xuống dưới.

Lòng sơn cốc tuy cũng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới, nhưng dưới tác động của địa hình đặc biệt, ở nơi sâu có những dòng khí đối lưu quanh năm lượn vòng khiến mưa gió khó lòng xâm nhập vào bên trong.

Từ vách đá bò xuống mấy chục mét, đã không còn cảm thấy tiếng gió thổi ù ù trên mặt đất, lượng mưa cũng giảm đi khá nhiều.

Tư Mã Khôi xuống đến độ sâu ngoài trăm mét, thì nhìn thấy sương khí dưới chân đặc quánh ngưng tụ, nếu còn xuống sâu hơn, thì sẽ lọt vào đám sương dày mênh mông.

Loại sương mù đậm đặc này lai lịch bất minh, tuy bản thân sương mù hoàn toàn vô hại đối với cơ thể con người, nhưng nó cũng khiến những chất ô nhiễm trong không khí không dễ phát huy, rất có khả năng sẽ trở thành “sương mù sát nhân” khiến con người tử mạng.

Tuy cơn bão nhiệt đới Buddha khiến khí hậu thay đổi theo chiều hướng xấu, thổi tan tác đám sương mù trào ra từ lòng đất ở núi Dã Nhân, sương mù trong khe cốc khổng lồ cũng chịu sự áp chế của cơn giông tố, mà dần dần hạ thấp xuống với tốc độ chậm chạp.

Nhưng trong động huyệt vẫn hoàn toàn bị mây mù che phủ kín mít, nông sâu khó lường, trong màn sương bí ẩn ngưng tụ không thể tiêu tán, tử khí bốc lên nặng nề, không rõ ẩn chứa những hung hiểm gì.

Cho dù chiếc tiêm kích vận tải đúng thật rơi xuống chỗ này, nhưng đội thám hiểm phải đi vào màn sương mù hạn chế tầm nhìn đến cực độ, tiến hành tìm kiếm khắp khu vực rộng lớn, sâu hút như vậy, thì cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, cơ hội thành công rất đỗi mờ mịt, mong manh.

Không những vậy, suốt chặng đường mệt muốn đứt hơi, mọi người đi đến đây đều sức cùng lực kiệt, cảm thấy khó có thể gắng gượng thêm được nữa.

Ngọc Phi Yến thấy đội thám hiểm đã thoát khỏi sự công kích của cơn bão nhiệt đới và vào đến lòng sơn cốc, theo tình hình lúc này, thì nên dừng chân hạ trại, không nên gấp gáp quá, kẻo cuối cùng lại hóa công cốc.

Nghĩ vậy, cô ả bèn bảo mọi người ngừng chân nghỉ ngơi, đợi khi đám sương bí ẩn kia xuống thấp hơn nữa mới tiếp tục hành động.

Ở giữa hai vách đá trong lòng sơn cốc, mọi người tìm thấy một cái động lõm bị dây leo rừng phủ đầy, độ nông sâu rộng hẹp vừa đủ để mấy người bọn họ chen chúc chui vào, nhóm một đống lửa, hong khô quần áo vừa ướt sũng nước mưa, đồng thời giở lương khô ăn lót dạ, bên tai vẫn nghe thấy tiếng mưa rơi lào rào, trong những khe đá sát bên cạnh vẫn vọng lại tiếng gió càn quét ù ù.

Cả đội trú chân ở nơi hiểm ác “đầu không chạm trời, chân không chạm đất”, trong lòng không khỏi thót tim quặn bụng, làm sao có thể yên tâm nghỉ ngơi.

Trong thời gian một ngày ngắn ngủi, Ngọc Phi Yến liên tục bị chặt đứt mấy thuộc hạ đắc lực như tay trái tay phải, trong lòng đương nhiên không tránh khỏi cảm giác đau buồn, hoảng loạn, ngẫm nghĩ thấy giờ đây bên mình chỉ còn lại mỗi gã Gấu trắng người Nga, mà người này vì tránh né sự thống trị của bức màn sắt Nga – Xô Viết, mới chạy lưu vong sang dải đất Đông Nam Á, gã từng ở địa phận vô chính phủ khắp giữa ba nước Miến Điện, Campuchia, Thái Lan bán mạng cho quỷ dữ để trồng anh túc, việc giết người đối với gã đã trở thành bản tính, một khi thú tính trỗi dậy sẽ lập tức trở mặt không nhận người, sau đó do gây ra đại họa, bị người ta cắt mất nửa cái lưỡi, mới đành tháo chạy xuống eo biển Malacca, cuối cùng chuyển đến đầu quân làm thuộc hạ của Ngọc Phi Yến, hắn ta tính tình hung tàn, lạnh lùng, tâm địa khó dò, không đáng tin cậy.

Lúc này, người mà Ngọc Phi Yến có thể gửi gắm niềm tin và hi vọng chỉ có bốn thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện mà thôi.

Lúc đầu cô ả chỉ định dẫn theo Karaweik – cậu bé có thể tìm thấy con đường U Linh và thông thạo khu vực chôn vùi địa lôi ngầm, nhưng giờ đây, khi ngoái đầu nhìn lại chặng đường đã qua, cũng may nhờ lôi kéo Tư Mã Khôi vào nhập hội, nếu không hậu quả thực chẳng dám nghĩ đến.

Ngọc Phi Yến dự định sau khi mọi việc thành công, sẽ lôi kéo, mua chuộc mấy người này gia nhập băng đảng của mình, cái cô tinh thông y thuật, giỏi nắn xương tên là Tuyệt gì đó còn có vẻ dễ thuyết phục, chứ hai gã Tư Mã Khôi và La Đại Hải tính tình quái đản, cứng mềm đều chẳng ưa, phải nói thế nào mới khiến họ động lòng đây?

Từ trước đến nay, Ngọc Phi Yến là người đa mưu túc trí, rất giỏi lung lạc lòng người, chỉ cần động não một chút, liền nghĩ ngay ra kế sách.

Nhân thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, liền tìm đầu mối nơi Karaweik trước tiên.

Ngọc Phi Yến phát hiện cậu bé cực kỳ nhát gan, từ khi vào trong sơn cốc đến giờ cứ mãi sợ hãi đến nỗi hai hàm răng liên tục đánh cầm cập vào nhau, chẳng mở miệng nói nổi nửa lời, liền rút một miếng ngọc phỉ thúy hình ống ở trong người ra.

Tổ tiên cô ả từng là giai cấp quý tộc giàu có hiển hách, miếng ngọc phỉ thúy này là một trong những báu vật gia truyền của tổ tiên, nếu bỏ nó vào chậu thau đồng đựng đầy nước sạch, sẽ phát ra ánh sáng xanh biếc sóng sánh ngập chậu, miếng ngọc quả thực là vật khác thường, vì nó còn có khả năng giúp chủ nhân tránh tà chặn nạn.

Ngọc Phi Yến cầm miếng ngọc bội, luồn sợi chỉ đỏ vào, rồi đeo lên cổ Karaweik, đồng thời nói cho cậu bé rõ tác dụng thần kỳ của nó.

Tuyệt thấy Karaweik có vẻ ngơ ngác không hiểu gì, thì nói với cậu vật này vô cùng quý giá, bảo cậu phải mau cảm ơn Ngọc Phi Yến.

Ngọc Phi Yến thầm đắc ý trong lòng, đang định nhận Karaweik là đồng hương, rồi nhân cơ hội này khiến hội Tư Mã Khôi thu nạp mình vào nhóm.

Ai ngờ Tư Mã Khôi nhìn cũng chẳng thèm nhìn miếng ngọc phỉ thúy gia truyền của cô ả, quay ngoắt sang hỏi Ngọc Phi Yến:

“Không có công lao mà nhận bổng lộc, e rằng ăn không ngon, ngủ không yên.

Thằng nhóc Chủ Nhật này là anh em của tôi và La Đại Hải, cô tặng cho nó vật quý giá như vậy, thì bọn tôi cũng phải tặng lại cô một vật mới phải đạo chứ”.

Ngọc Phi Yến biết thái độ này của Tư Mã Khôi tức là anh không chịu nhận lễ, đang ngầm tỏ ra bất cần, liền thầm nghĩ:

“Gã tiểu tử này trên người có vật gì đáng đem ra so sánh với miếng ngọc gia truyền của tổ tiên nhà mình, mà dám mặt dày mang ra đáp lễ?

” Tư Mã Khôi đọc được ý nghĩ của cô ả, liền bảo cô đừng coi thường người ta quá đáng như thế, chớ quên thuyền rách cũng còn có ba ngàn cái đinh, gia tộc họ Thắng nhà cô có món đồ chơi gia truyền, thì chúng tôi cũng có vật ông bà cụ kị để lại chứ, nói xong liền quay sang La Đại Hải liếc mắt ra dấu, ý bảo anh hãy lôi vật nhà mình ra cho Ngọc Phi Yến được mở rộng tầm nhìn.

Từ trước đến nay La Đại Hải và Tư Mã Khôi làm việc rất ăn ý, anh gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi lộn ngược toàn bộ các túi trái phải trước sau trên người, cuối cùng cũng lôi ra được một cây móc ngoáy tai bằng đồng có khắc hoa văn, xem công nghệ có vẻ như là sản phẩm thủ công bản địa của người Miến Điện, tuy nhìn có vẻ khá tinh sảo, màu sắc có vẻ cũng đã lâu năm, nhưng ngắm thế nào thì cũng vẫn là loại hàng chợ, mang ra đặt ngang hàng với báu vật hiếm có khác thường của Ngọc Phi Yến, quả thực trông rõ rẻ tiền, kém phẩm chất, vật này thì có giá trị gì?

Nếu lỡ rơi trên đường, sợ rằng của chẳng có ai thèm nhặt.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến nhìn chiếc ngoáy tai bằng đồng với con mắt đầy vẻ khinh thường, miệt thị, thì vờ cười nhạt một tiếng, nói với cô ả:

“Thủ lĩnh! Chắc cô không hiểu về hàng họ lắm thì phải, có phải cô cho rằng vật trong tay anh em bọn tôi chẳng đáng hai hào mua cái lỗ đít gà không?

Tạm thời chưa vội luận bàn đến việc đắt rẻ, nó thực sự không phải vật tầm thường đâu.

Thực ra chắc cô không biết đấy thôi, chứ lúc cuối thời Thanh đầu những năm Dân Quốc, nó được mang ra từ đại nội hoàng cung đấy.

Bao nhiêu năm qua, nó là bảo vật nhét đáy hòm nhà Hải ngọng, nếu chẳng phải đem tặng cho nhân vật có thân phận cao quý như cô, thì chúng tôi có sống chết gì cũng chả chịu mang ra đâu”.

La Đại Hải ở bên cạnh cũng giúp đánh trống gõ mõ, hai khóe mắt hoen hoen đỏ như thể đang xúc động dạt dào, ngậm nước mắt khuyên can Tư Mã Khôi:

“Người anh em! Tớ suy đi tính lại, vẫn thấy không nỡ xa rời nó, chúng ta làm như vậy thực sự….

thực sự rất có lỗi với tổ tông đó”.

Nó đoạn liền định lấy vật đang ở trong tay Tư Mã Khôi mang đi.

Ngọc Phi Yến vốn dĩ cho rằng Tư Mã Khôi đang định giở trò với mình, nhưng nhìn sắc mặt trịnh trọng của bọn họ, quả không phải làm giả, chẳng lẽ mình lại nhìn lầm thật, nhưng xét cả tình và lý, thì đều nói không thông, chỉ đành hỏi lại:

“Làm sao trong hoàng cung lại có loại hàng chợ này?

” Tư Mã Khôi cố tình ra vẻ bất lực nói:

“Chúng tôi nói đến đâu thì biết đến đấy, hôm nay tôi kể lai lịch gốc gác của nó cho cô biết cũng chẳng hề gì, nhưng cô tuyệt đối không được loan truyền ra ngoài, vì đây chẳng phải chuyện gì phong quang cho lắm”.

Ngọc Phi Yến càng cảm thấy quái dị hơn, bên trong còn có thể ẩn chứa chuyện gì không phong quang nữa đây?

Thì nhìn thấy Tư Mã Khôi thò tay chỉ La Đại Hải, rồi trầm giọng nói với cô:

“Chẳng giấu gì cô, cô đừng thấy Hải ngọng nói giọng khẩu âm Đông Bắc mà cho rằng cậu ta là người Đông Bắc, kỳ thực tổ tông mấy đời nhà Hải ngọng đều là người Bắc Kinh, dưới gốc rễ hoàng thành Bắc Kinh từ trước đến nay đều là nơi ngọa hổ tàng long, loại cao nhân nào mà chẳng có?

Ông nội nhà Hải ngọng cũng không phải nhân vật tầm thường, mà là vị đại thái giám cuối cùng của vương triều Mãn Thanh, tên là Tiểu Đức Hải.

Còn về vật này thì lai lịch càng không phải bàn, đó là vật ông nội Tiểu Đức Hải thuận tay dắt bò, tiện cầm luôn ra ngoài, lúc theo hoàng đế Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành đấy”.

La Đại Hải nghe xong suýt chút nữa thì ngất xỉu, chửi thầm trong bụng:

“Tiên sư thằng Khôi, cậu đúng là đồ một bụng nước bẩn, thấy lời là chiến, tớ đếch thấy ai thất đức hơn cậu, có ông nội nhà cậu mới là mẹ nó thái giám ấy”.

Nói là nói vậy, chứ đến nước này, anh cũng đành tiếp tục nhăn mặt, thở dài than vãn với Ngọc Phi Yến:

“ Cô nghe người ta nói thế cũng chẳng sao, nhưng đã nghe thì phải nghe cho rõ đầu cua tai nheo, thực ra nội tôi ông già chẳng phải hạng trộm cắp, tiện tay lấy đồ của người đâu, chỉ là muốn lưu lại chút kỷ niệm, cái này gọi là làm người không được quên gốc gác, sau khi nước Đại Thanh của chúng ta không còn, ông già ngày nào cũng lôi cái ngoáy dáy tai này ra lễ đủ ba lạy, khấu đầu đủ chín cái, ông già vào cung từ lúc sáu tuổi, hầu hạ thái hậu và hoàng thượng quá nửa đời người, mãi đến lúc chết vẫn chưa quên tận trung với chủ đấy….

Nói đến câu cuối cùng, dường như hoài niệm lại chuyện cũ, cảm xúc dâng trào đến nỗi nghẹn ngào chẳng nói thành lời.

Tư Mã Khôi liền vội vàng cất lời an ủi:

“Nô tài mà làm được đến như vậy, thì cũng coi là chẳng còn gì phải hổ thẹn với chủ nữa rồi”.

Ngọc Phi Yến nghe đến đây thì càng sinh nghi:

“Ông Tiểu Đức Hải đã là thái giám trong Tử Cấm Thành, hơn nữa lại tịnh thân, vào làm quan lúc mới sáu tuổi, thì làm gì còn sinh con đẻ cháu được nữa?

” Tư Mã Khôi vội vàng che đậy hộ Hải ngọng, nói sau khi công công Tiểu Đức Hải xuất cung, chẳng phải ông ấy vẫn phải thành gia sống nốt quãng đời còn lại sao?

Kết quả là ông ấy lấy một cung nữ già làm vợ, rồi nhận nuôi một đứa con trai lúc tuổi già xế bóng, để còn giúp mình dưỡng già đưa ma, tuy không phải cha đẻ, nhưng tình cảm cha con thân thiết chẳng chê vào đâu được, cái đó gọi là “không phải ruột thịt, mà còn hơn ruột thịt”, đây chính là điểm khiến người ta cảm động nhất trong gia đình nhà La Đại Hải.

Ngọc Phi Yến nhẹ gật đầu, trong lòng vẫn còn rất nhiều nghi hoặc không giải đáp được, bèn hỏi:

“Vị công công Tiểu Đức Hải đã định lấy một vật trong cung ra ngoài, sao chẳng lấy vàng bạc ngọc ngà, hoặc chí ít cũng là tranh chữ, đồ cổ, mà lại lấy cái móc ngoáy tai mang về lót dưới đáy hòm?

” Tư Mã Khôi lại khua môi múa mép bịa một hồi, nói cô đừng coi thường cái móc ngoáy tai bằng đồng chính hiệu này, những bảo vật quốc gia đều danh tiếng đúng với thực tế, vì sao ư?

Bởi vì nhìn một vật cổ, cô không thể phán đoán nó sang hèn dựa vào chất liệu, mà trước tiên phải xem giá trị lịch sử, thứ đến mới là giá trị nghệ thuật của nó.

Nghe nói từ thời Đại Minh, Hồng Vũ Đế nổi dậy, tắm máu trăm trận, cuối cùng cũng đẩy lùi nhà Nguyên lui về phía bắc sa mạc Gobi, phục hồi sơn hà nhà Hán chúng ta, sau loạn Yến Vương dẫn quân tạo phản, Hán Chiêu Đế giành được ngôi báu dựng đô ở Bắc Kinh, chăm lo trị quốc, nhờ thế đất nước được hưởng thái bình, trải qua bao nhật nguyệt vần vũ, vật đổi sao rời, việc này gọi là “hoa thơm không thường nở, cảnh đẹp chẳng thường thấy”, đến những năm cuối triều đại nhà Minh, triều đình thất chính, trong nhiễu ngoài loạn, dân chúng không thể yên ổn sinh sống, đầu tiên là Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh, bức tử hoàng đế Sùng Trinh ở núi Môi Sơn, thay đổi triều đại thời thế, thiên hạ bách tính cứ ngỡ từ nay lại được an cư lạc nghiệp, đâu ngờ lại xuất hiện tên Tổng binh Ngô Tam Quế nổi giận vì bị cướp mất hồng nhan tri kỷ, đã mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn vào, đội quân giáp sắt giương cao bát kỳ hành quân như gió cuốn tiến về Nam, đi đến đâu thắng như chẻ tre đến đó, cứ thế hùng cứ Trung Nguyên, nước Đại Thanh vẫn dựng đô ở Bắc Kinh, cô có biết vì sao không?

Chỉ bởi vì vị hoàng đế Mãn Thanh đó cũng nhìn trúng ý địa hình Bắc Kinh của chúng ta, rõ ràng không phải hạng tầm thường, đất này phía bắc ngậm núi Yến Sơn, phía tây tiếp giáp núi Thái Sơn, Hành Sơn, phía Đông nuốt biển Bột Hải, phía nam trấn áp sông Hạ Thủy, núi Hoa Sơn, quả thật có thể gọi đây là “kim phủ thiên thành”, là nền móng không thể lung lay của vạn cổ ngàn năm.

Từ khi Mãn Thanh làm chủ Bắc Kinh đến nay, liên tiếp mấy đời minh quân thánh chủ, thấu thời độ thế, trọng dụng hiền tài, dân no nước đủ, trọng thị canh nông, bình định mọi cuộc phản loạn, ba phen quét sạch, cuối cùng cũng khiến bốn biển thống nhất, vạn dân quy thuận, nào ngờ, sau thời Khang Hy, Càn Long trị vì đất nước, lại chẳng ngăn cản nổi sự luân chuyển thịnh suy, phong vân biến đổi, cuối cùng cương triều bại hoại, đại cục hỗn loạn đến nỗi không thể dàn xếp nổi nữa, mắt nhìn liên quân tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu buộc phải hoảng loạn chạy trốn, trên đường khênh kiệu tháo chạy, thời tiết hanh khô, nước non thiếu thốn, mặt trời chói chang xuyên suốt tầng không, tịnh chẳng bóng mây, lão Phật gia trong người bốc hỏa, tai ù mắt mỏi, nỗi khổ chẳng thể nói thành lời, ngự y chữa trị nhiều phương pháp nhưng vẫn vô hiệu, đúng lúc sắp sửa hấp hối lìa đời, may mà có một vị cung sử theo hầu dâng lên một cái móc ngoáy tai lung linh bát bảo mà nước Xiêm từng cống tặng trước đây, sau khi được chính tay tổng quản thái giám Lý Liên Anh ngoáy tai lấy dáy ra, mang cục dáy đặt lên bàn cân, thấy nặng hơn hai hoa, Từ Hy thái hậu hạ được nội hỏa trong người, phút chốc cảm thấy tinh thần sảng khoái, tai thông mắt rõ, bởi vậy mà sống lại, trở về Bắc Kinh chủ trương nghị hòa với bọn giặc tây, ký kết hiệp ước Tân Hợi.

Có thể nói nếu lúc đó Từ Hi thái hậu không được ngoáy tai, thì bà ta đã chẳng thể bảo toàn tính mạng trở về kinh thành.

Nếu bà ta không trở về, thì công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất của hoàng đế Quang Tự rất có thể đã thành công, còn ông cũng không cần uất ức đến phát bệnh, để rồi cuối cùng rơi vào thảm cảnh nuốt hận lìa đời.

Có ai ngờ, chỉ mỗi chiếc móc ngoáy tai bé tí tẹo, lại trở thành vật chứng lịch sử chứng kiến sự thay đổi biến hóa của phong vân và những năm cuối của thời vãn Thanh bị tước quyền đoạt nước.

Chẳng trách sau đó Lý Hồng Chương đại nhân lại cảm thán:

“Nhọc nhằn thân ngựa đóng yên cương/ Đại sự chưa thành chết còn vương/ Ba trăm năm nước nhà suy bại/ Lủng lẳng xác dân treo dọc đường/ Thu phong bảo kiếm thầm rơi lệ/ Tà dương rọi bóng bức thành tường/ Ngoáy tai móc đồng, một báu vật(Vốn là:

Phiêu du bốn bể lòng trĩu nặng)/ Đồng bào ơi hỡi, hãy lên đường”.

Đến lúc này Ngọc Phi Yến cuối cùng cũng hiểu, thì ra Tư Mã Khôi nói nhiều như thế, chẳng qua chỉ muốn thể hiện món đồ chơi rách của anh ta có giá trị phi thường, đủ sức ngang hàng với mảnh ngọc bội phỉ thúy mà mình vừa mang tặng Karaweik, tấm chân tình sâu nặng toàn tâm toàn ý phơi ra bị gã tạt một gáo nước lạnh.

Đúng là minh châu bảo ngọc rơi vào tay kẻ mù, lòng tốt bị coi là lòng lang dạ sói.

Càng nghĩ, cô ả càng tức lộn ruột, không nhịn nổi, đôi hàng lông mày thanh tú dựng đứng lên:

“Anh coi thường tôi thế cơ à?

” Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bị mình chọc tức đến nỗi gò má chuyển màu trắng bệch, nước mắt ầng ậng trực trào ra khỏi mi, trong lòng anh cũng không khỏi cảm thấy ái ngại, liền nói thẳng với cô cho rõ chuyện.

Tư Mã Khôi khuyên nhủ cô cứ nhận lấy đi, tuy vật này không thể sánh với những vật cô từng nhìn thấy dưới mộ cổ, nhưng châu chấu đã nhảy vào chảo mỡ, ít nhiều gì thì cũng thành thức ăn mặn.

Hơn nữa cô cũng đừng tốn công phí sức lôi kéo bọn tôi nhập hội làm gì, bao nhiêu năm nay, chưa có người nào sống sót thoát ra khỏi sơn cốc trong núi Dã Nhân.

Lùi một vạn bước mà nói, cho dù chúng ta thực sự may mắn giữ được cái mạng mà ra được, tôi cũng chỉ hi vọng cô hãy thực hiện lời hứa lúc trước, dẫn Karaweik cao chạy xa bay, còn về chuyện ba người bọn tôi, cô đừng can thiệp vào nữa.

Thì ra ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt trước khi gặp nạn “Đỉa Campuchia” ăn thịt người, đã suy nghĩ rất kỹ, cho dù ba người mình may mắn mang được mạng sống rời khỏi núi Dã Nhân, thì cũng không định trốn ra nước ngoài.

Bởi vì sang bên đó, trên người chẳng có sở trường, cũng chẳng có nổi nghề nghiệp nuôi thân, vì kế sinh nhai, chắc chắn sẽ bị người khác khống chế, sớm muộn gì mà chẳng theo Ngọc Phi Yến trở thành dân “Hối tử” trộm mộ.

Nghĩ đến kết cục mà hội Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp phải nhận, có thể thấy đúng thực “Người chết vì của, chim chết vì mồi”, bọn họ đều là những kẻ được người ta bỏ nhiều tiền ra thuê, kết quả bị chết oan uổng, bất minh trong cánh rừng nguyên sinh đoạt tuyệt với thế giới bên ngoài.

Làm những phi vụ mang sọ dừa giắt trong cạp quần như vậy, ai dám đảm bảo một ngày nào đó chẳng gặp vận rủi, đâm đầu vào tay “hồn ma chết bất đắc kỳ tử” mà đền luôn tính mệnh.

Nếu phải bán mạng cho bọn tài phiệt vì chút tiền bạc, để đến cuối cùng chết nhục nhã chẳng khác nào một con chó, thì chẳng thà cứ vượt biên trở về đất nước, đáng bị bắn thì chịu bắn, đáng bị ngồi nhà đá thì ngồi nhà đá, như vậy còn thoải mái, dễ chịu hơn nhiều.

Ngọc Phi Yến nghe mấy lời của Tư Mã Khôi, cơn thịnh nộ trong lòng cũng nguôi ngoai đi chút ít, nhưng vẫn còn chưa hết giận anh, đang lúc định nói với anh câu gì, đột nhiên một âm thanh cực mạnh từ đáy sơn cốc dội lên, mọi người biết chắc có chuyện chẳng lành sắp xảy ra, liền vội vàng thò người xuống nhìn, chỉ thấy trong lớp sương mù bí ẩn dày đặc phía dưới chân, phát ra mấy luồng sáng cực mạnh, không những vậy nó còn vô cùng chói mắt.

Ánh sáng cực mạnh chói lòa, xuyên qua từng tầng sương dày, lúc mờ lúc tỏ không ngừng lay động, nó dao động lắc lư liên tục khiến người ta hoa hết cả mắt, cùng với đó là âm thanh quái dị cứ “răng rắc răng rắc” như tiếng thân cây cổ thụ mục nát đang bị đổ sụp gãy gập, nghe mà sởn gai ốc, anh ngẫm nghĩ:

“Mấy luồng sáng trong sương dày trông chói sáng lóa mắt thế kia, có khi phải mạnh gấp mười lần ánh sáng của đèn chiếu Halogen, chắc chắn không thể là ánh sáng của sinh vật.

Lại còn âm thanh giống như tiếng cành gãy, rung lên từng đợt dưới khe cốc, đang di chuyển đi lên với tốc độ chóng mặt nữa chứ, rốt cục là vật thể gì phát ra tiếng động đó nhỉ?

” Hồi 7 :

Rơi vỡ Ở nơi sâu khoảng hai ba trăm mét dưới khe cốc, bỗng xuất hiện mấy luồng sáng chói mắt phát ra từ đám sương mù dày đặc, ánh sáng mạnh trong bóng tối dao động bất định, đồng thời dưới lòng đất còn vọng lại âm thanh khác thường nghe “răng rắc” như tiếng cành khô gãy vụn, xem động tĩnh thì dường như có một vật gì bên dưới vực sâu đang bò lên với vận tốc rất nhanh.

Tư Mã Khôi đoán định nguồn ánh sáng xuất hiện trong sương mù đày đặc chắc chắn không phải ánh sáng sinh học.

Bởi những loại ánh sáng do sinh vật hoặc quặng đá phát ra đều thuộc loại hàn quang hóa học, thời gian chiếu sáng kéo dài, không tỏa nhiệt, đối với con người mà nói, đó là nguồn ánh sáng lý tưởng nhất, vậy mà tia sáng dao động trong lớp sương mù mịt kia lại vô cùng chói mắt, những loại đèn chiếu sáng thông thường không thể nào so bì, dường như nó được sản sinh ra từ nguồn nhiệt quang điện khí.

Lẽ nào trong khe cốc dưới lòng đất âm u không nhìn thấy mặt trời, hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này, lại ẩn giấu loại “thiết bị chiếu sáng cường quang” có thể hoạt động tốt cho đến tận bây giờ?

Chiếc tiêm kích mất tích gần ba mươi năm, trong môi trường ẩm ướt, lạnh lẽo thế này, nó cũng sớm bị ăn mòn, hoen rỉ, rách nát chẳng còn hình dạng, hơn nữa, trên thân máy bay chắc chắn không lắp đặt loại đèn chiếu sáng cường quang, bởi thế nguồn sáng phát ra từ màn sương dày đặc, cũng không thể đến từ chiếc máy bay bị rơi vỡ cách đây nhiều năm.

Mọi người ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, khó nói thành lời, chẳng ai hay cái gì sẽ xuất hiện trong đám sương mù, nín thở tập trung nghe ngóng một hồi lâu, chỉ thấy mấy chùm sáng bỗng dưng vụt tắt, đáy khe cốc một lần nữa lại trở về trạng thái yên ắng không một tiếng động, như thể chưa từng xảy ra bất cứ việc gì trước đó.

Điều nguy hiểm sở dĩ trở thành nguy hiểm, khả năng rất cao, là do con người không thể dự đoán trước được chân tướng thật sự của nó, Tư Mã Khôi cũng biết gặp những việc đại loại như thế này, chỉ dựa vào phán đoán thì chưa đủ, mà còn phải tận mắt xác thực, anh và mọi người bàn bạc một chút, rồi quyết định mình và Ngọc Phi Yến hai người sẽ xuống chỗ sương mù mịt mùng dưới kia làm rõ xem rốt cục đó là cái gì.

Hai người mang theo vũ khí, trên người buộc đèn led dã ngoại chiếu sáng bằng điốt phát quang, lại cầm thêm chiếc đèn pin tụ quang siêu sáng, tay bám rễ cây từ từ tụt xuống, càng đến gần chỗ sương khí trào ra, càng lờ mờ nhìn thấy một bóng đen to lớn ẩn hiện trong màn sương mù mênh mang mờ mịt.

Do sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha càng ngày càng gia tăng, nên sương khí trong lòng sơn cốc cũng dần dần giảm xuống thấp, lúc hai người đến gần thì sương mù không còn quá dày đặc nữa, nhờ ánh sáng của đèn pin, Tư Mã Khôi có thể nhìn kỹ bóng đen to lớn đó, không ngờ nó lại là một chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, bị vô số rễ cây buộc chặt, chiếc máy bay có phần đầu tù tròn, phần thân hình e líp dọc, hai cánh phân bố theo hình thang, trước hẹp sau rộng, điểm khác biệt so với các máy bay cùng loại là từ đầu đến đuôi đều sử dụng kết cấu gỗ ván ép.

Trên thân chiếc máy bay tiêm kích còn có biểu tượng “Rắn đen” rất bắt mắt, chiếc máy bay này hoàn toàn giống với chiếc máy bay chụp ở sân bay không quân trong ảnh, không những vậy kết cấu cũng hoàn toàn đồng nhất với chiếc tiêm kích số hiệu “Rắn đen” bị mất tích của không quân Anh.

Do chiếc máy bay mang số hiệu “Rắn đen” thuộc loại máy bay tiêm kích cải tiến, nên căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ, đã đặc biệt nới rộng dung tích chuyên chở hàng hóa, phần thân cũng được cải tiến gần như toàn bộ, so với những chiếc máy bay tiêm kích hạng nhẹ thông thường, trông nó rất khác biệt.

Bởi thế, so sánh với ảnh chụp, đoàn thám hiểm không khó đoán ra “thân phận” của nó.

Ghi chép năm đó còn cho thấy:

sau khi chiếc máy bay bị rơi xuống sơn cốc, giọng liên lạc chập chờn khi được khi mất phát ra qua sóng điện, lúc các thành viên của đoàn bay gắng sức kêu cứu, cũng đã xác nhận chiếc “Rắn đen” bị rơi vào sương mù, sau đó thì hoàn toàn đứt đoạn mọi liên lạc với thế giới bên ngoài.

Nhưng giờ đây, Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến tận mắt chứng kiến, mới biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó không hề rơi xuống nơi sâu nhất dưới đáy cốc, mà bị rễ cây cổ thụ treo níu giữ treo lơ lửng giữa không trung.

Do máy bay tiêm kích khác với các loại máy bay quân dụng khác, nó hoàn toàn sử dụng gỗ Balsa – một loại gỗ rất nhẹ để xây dựng kết cấu, động cơ Piston tản nhiệt mang lại hiệu suất cực cao, tốc độ bay nhanh, thời gian bay có thể kéo dài liên tục, đồng thời khả năng tải trọng không vì thế mà giảm xuống, chẳng những vậy khả năng sống sót lại rất cao, có thể thích hợp mọi nhu cầu nhiệm vụ gian nan, dưới diều kiện khí hậu biến đổi phức tạp ở vùng núi Miến Điện, nó càng phát huy tính năng ưu việt vượt trội.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải cải tiến số hiệu “Rắn đen” khi bị mất lái rơi xuống sơn cốc, thì chịu sự tác dụng của dòng khí lưu thông trong khe cốc, khí đối lưu khiến thân máy bay được bảo toàn nguyên dạng, xem ra chẳng có hư hại gì nghiêm trọng.

Đội thám hiểm liều mạng xông vào núi Dã Nhân là để tìm chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lấy “hàng” trong khoang máy bay về, thế mà lúc này chiếc máy bay mất tích mà cả hội đang săn lùng lại bất ngờ hiện ra ngay trước mắt, nó bị đám rễ cây bám lung tung quanh thân, treo lủng lẳng giữa không trung.

Như vậy cũng có nghĩa cả đội không cần xuống dưới đáy động sâu hút nơi sương khí bủa vây, hiểm nguy mai phục tứ bề nữa.

Không thể không thừa nhận đây là niềm vui ngoài ý muốn nhưng chẳng hiểu vì sao Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến không hề cảm thấy may mắn mà ngược lại còn lờ mờ có dự cảm không lành.

Ngọc Phi Yến nhìn bên trong khoang máy bay tối hù hù, yên ắng rợn người, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi:

“Anh có cảm thấy chiếc máy bay vận tải này có điểm gì bất thường không?

” Tư Mã Khôi bám vào rễ cây rủ xuống từ vách đá dựng đứng, nhìn đăm đăm một hồi vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, anh đã sớm nhận ra vài điểm quái dị khác thường, bèn thuận miệng đáp:

“Cũng hơi bất thường, trông nó mới quá… dường như chỉ vừa bị rơi xuống chưa lâu”.

Trên thực tế, chiếc may bay tiêm kích vận tải rơi xuống động huyệt trong sơn cốc có lẽ đã gần ba mươi năm.

Vậy mà thời gian và quá trình xâm thực của môi trường ác nghiệt dưới lòng đất lại không để lại chút dấu tích nào trên thân mình nó, lớp sơn vẫn mới toanh như lúc ban đầu, có lẽ ngay cả động cơ cũng hãy còn nóng.

Nghĩ lại việc ở ngoài sơn cốc lúc trước, mọi người từng nhìn thấy bóng chiếc máy bay u linh bay sát đầu rồi lượn vèo qua, khi ấy trong khoang máy bay không hề có chút ánh sáng nào, cánh quạt cũng đã ngừng quay, đội thám hiểm đuổi theo quỹ đạo phi hành của nó đến tận đây.

Theo lý mà suy đoán, thì chiếc máy bay vận tải vừa bay lượn giữa tầng mây, cũng chính là chiếc “Rắn đen” đang bị rễ cây cổ thụ buộc chặt dưới sơn cốc.

Nhưng sao mỗi lúc xuất hiện nó lại có những đặc điểm khác nhau như hai chiếc hoàn toàn riêng rẽ vậy?

Trong khi, chiếc máy bay vận tải số hiệu “Rắn đen” thực hiện nhiệm vụ chuyên chở đặc biệt của quân đội hoàng gia Anh, chỉ có một chiếc duy nhất đã mất tích hơn hai mươi năm trước trong núi Dã Nhân mà thôi.

Ngọc Phi Yến không nén nổi nỗi hoài nghi trỗi dậy trong lòng:

“Lẽ nào chiếc khi nãy nhìn thấy chỉ là ảo giác?

Bởi vì mọi vết tích đều cho thấy chiếc máy bay đang hiện hữu ngay trước mắt quả thực đúng là mới rớt xuống đây chưa lâu.

Rốt cục chiếc máy bay số hiệu Rắn đen đã mất tích nhiều năm đã gặp phải chuyện gì?

Trong điều kiện không hề có động lực, làm sao nó có thể bay lượn giữa không trung?

”, rồi cô lại nghĩ hay là thời gian và không gian – những năng lượng hằng định bất biến này đều bị bẻ cong quay vòng trùng lặp trong đám sương mù dưới lòng đất, mới khiến chiếc máy bay vận tải số hiệu Rắn đen xuất hiện theo phương thức quái dị không thể tưởng tượng nổi giống như loài ma quỷ?

Ngoài ra, những phi công trong khoang máy bay đều đi đâu cả rồi?

Còn nữa, mấy luồng sáng chói mắt dội ra từ đám sương mù và âm thanh dị thường kêu “răng rắc răng rắc” không ngớt phát ra từ nơi sâu dưới lòng đất rốt cục là thứ gì vậy?

Tuy rằng Ngọc Phi Yến đi nhiều hiểu rộng, nhưng tình hình lúc này cũng chẳng khác chi sa vào đám sương mù mịt trải dài năm dặm, không thể phân biệt nổi phương hướng, bởi vì những việc này hoàn toàn khác xa với những phi vụ trộm mộ mà cô hằng thông thuộc, hơn nữa tình hình hiện tại đang phải đối mặt dường như thuộc về phạm trù “hiện tượng siêu nhiên”, các kiến thức khoa học thường thức và định luật vật lý đều khó lòng giải thích thỏa đáng, trong đầu cô liên tiếp lóe lên vài ý tưởng, nhưng rất nhanh sau đó đều bị chính mình phản bác, cuối cùng cô đành một lần nữa quay sang hỏi Tư Mã Khôi:

“Trong thực tế sao lại xuất hiện tình hình như vậy được nhỉ?

Hay chúng ta đang gặp ác mộng chắc?

” Tư Mã Khôi lại chẳng ước những việc trải qua trong mấy ngày nay chỉ là một cơn ác mộng quá đi chứ, nhưng vết thương đang ngâm ngẩm đau trên vai không ngừng nhắc nhở anh:

“Những việc trước mắt tuy rằng quái dị ngoài sức tưởng tượng, nhưng lại hoàn toàn là sự thực, sự thật chắc như thép”.

Lúc này, nghe Ngọc Phi Yến nói, anh trầm mặc một lúc rồi mới trả lời:

“Chắc chắn chẳng phải ác mộng đâu”.

Miệng thì ứng đáp vậy, nhưng trong lòng lại ngẫm nghĩ:

“Lời này cũng có hai cách hiểu, từ cổ xưa đã có bốn giấc mộng:

“Hồ Điệp, Hàm Đan, Nam Kha, Hoàng Lương”, sau này còn có thêm Hồng Lâu mộng, tất cả như ngầm ẩn dụ vạn vật trên thế gian đều hư vô như giấc mộng, đời người vốn dĩ cũng chỉ là một giấc mộng, đang sống nghĩa là đang nằm mơ.

Nghĩ kỹ lại, câu nói này đúng là cũng có lý lẽ nhất định, khoảng cách giữa giấc mơ và hiện thực vốn rất mong manh, mơ hồ, chỉ có điều những gì cuộc đời mình gặp phải….

toàn là ác mộng”.

Từ trước đến nay, Tư Mã Khôi gan to trùm trời, anh bèn quyết định vào trong khoang máy bay trước nhìn xem sự thể thực hư ra sao rồi mới nói.

Tư Mã Khôi thi triển chiêu “Tiên nhân treo tranh”, dùng hai chân quắp lấy rễ cây, thân mình nhoài ra chúc đầu xuống nhòm vào bên trong, hai tay nhẹ nhàng chạm vào phần đầu khoang lái của chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen, sau đó dùng đèn pin tụ quang mang theo bên mình soi vào bên trong, rồi nghé mắt quan sát tình hình .

Trong phạm vi ánh sáng của đèn pin, chỉ thấy khoang lái trống toang hoang, ngoại trừ một vài chỗ bị rò nước do va chạm rách vỡ ra, thì ngay cả nửa bóng ma cũng chẳng thấy đâu.

Cả thân mình chiếc máy bay bị rễ cây buộc chặt cứng, treo lơ lửng giữa tầng không dưới lòng sơn cốc, những loài thực vật dây leo thả mình từ trên vách đá dựng đứng xuống dưới, thân to như các cột trụ trong đền chùa, miếu điện, tuy rất dai chắc nhưng rốt cục cũng đâu phải sắt thép, sức chịu đựng cũng đã gần tiệm cận mức giới hạn, hai tay Tư Mã Khôi vừa chạm nhẹ vào phần đầu khoang lái, liềnlập tức phát giác chiếc máy bay khẽ rùng rùng muốn rơi, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tuột khỏi sự ràng buộc của đám rễ cây, dây leo, tiếp tục lao xuống nơi sâu hơn.

Tư Mã Khôi cũng không dám liều mạng hơn, anh chỉ sợ sẽ nhào theo chiếc máy bay rớt xuống đáy cốc có sương mù bủa vây và rơi vào thảm cảnh máy tan người nát.

Chẳng tìm thấy bất cứ đầu mối nào trong khoang máy bay, anh bèn chuyển đèn pin tụ quang chiếu sáng hai cánh trên thân máy bay.

Nhưng đúng lúc này, từ trên cao dội xuống hàng loạt tiếng động rung trời chuyển đất, thì ra cơn cuồng phong giông tố do bão nhiệt đới Buddha mang tới quá sức dữ đội, kết cấu đất đá men bờ cốc lại xốp yếu, không chịu nổi sự công kích của mưa bão, nên đã xảy ra hiện tượng sụt lở trên diện tích rộng, một lượng lớn bùn đất, sỏi đá từ trên cao ùn ùn đổ xuống, không ngừng chảy về nơi sâu.

Hội La Đại Hải đợi ở bên trên chờ tiếp ứng, nhìn thấy hiện tượng nguy hiểm liên tiếp xảy ra giữa hai vách núi, thì biết nơi này chẳng thể dung thân lâu thêm được nữa, đành phải bám vào rễ cây tụt xuống dưới chạy trốn.

La Đại Hải hướng xuống dưới, thét gọi Tư Mã Khôi:

“Tránh ra mau!”, hai chân Tư Mã Khôi hãy còn bấu rễ cây, nghe tiếng hét thất thanh, liền vội vàng thu thân nhìn lên trên, chỉ thấy một luồng gió nhẹ ập vào mặt, trong bóng tối cũng chẳng nhận ra rốt cục là vật gì rơi xuống, anh vội vàng dùng tay ẩy mạnh thân máy bay, mượn lực đàn hồi đẩy cơ thể bắn ra xa, một đoạn rễ cây lớn đâm sầm vào chiếc máy bay, cùng với đó là sự công kích liên tiếp của dòng đất đá, bùn nước, chiếc máy bay phải chịu một xung lực rất lớn, phần đầu rách toạc thành một miệng hố, cùng lúc đó nó lao mạnh xuống dưới một chút, vài sợi rễ cây bám trên thân máy bay cũng bị đứt theo.

Trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Ngọc Phi Yến phát giác tình hình không ổn, hai vách đá dựng đứng cheo leo, một khi trên cao sụt lở rơi xuống, nếu còn lảng vảng ở chỗ rễ cây cổ thụ, thì chắc chắn sẽ không có đường mà di chuyển, né tránh, còn nếu bám vách mà trốn xuống phía dưới, cho dù không bị ngã thịt nát xương tan, thì cũng bị đất đá sụt lở rơi trúng mà vỡ đầu chảy máu, thấy chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen cũng đang có chiều hướng muốn rơi xuống nơi sâu, cô liền lập tức hét gọi mọi người mau chóng trốn vào trong khoang máy, chí ít như thế vẫn còn có thể mượn vỏ máy bay tạm thời tránh khỏi công kích, hơn nữa “hàng” trong khoang máy bay cũng phải thu về tay, nếu không bao nhiêu mạng người của Sơn lâm đội lão thiếu đoàn đều hi sinh vô nghĩa cả hay sao.

Cánh cửa may bay vốn bị thủng lỗ, bốn người bọn họ trong lúc sốt vó lo chạy trốn, chẳng thèm suy nghĩ lâu la, kẻ trước người sau thi nhau chui vào trong khoang.

Hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến trốn gần khoang lái, chưa kịp đóng nắp máy bay lại, thì mấy sợi rễ cây treo phần đầu máy bay đứt thêm hai cọng nữa, đầu máy gần như chúi xuống dưới, mọi người ngồi bên trong cũng lao mạnh theo đà, ai nấy đều bất giác hét toáng lên, tưởng như tim gan phèo phổi đều vọt ra khỏi miệng, hoảng hốt chụp vội lấy dây an toàn đùng để buộc hàng trong máy bay.

Ngọc Phi Yến chui vụt vào trong khoang lái, cô ả cũng chưa kịp hoàn hồn trở lại, nhờ chút ánh sáng phát ra từ đèn tụ quang, cô quan sát bốn phía xung quanh, phát hiện tuy chiếc máy bay mất tích hơn hai mươi năm, nhưng thiết bị điều khiển và đồng hồ các loại thì vẫn còn như mới, chẳng hề bị han rỉ hay bám bụi, lúc này trong lòng cô chỉ sót lại duy nhất một ý niệm:

“Sao có thể như vậy được….

rốt cục giờ đây đang là năm nào?

” Tư Mã Khôi nhìn thấy Ngọc Phi Yến ngồi vào vị trí phi công điều khiển, khuôn mặt tư lự đăm chiêu, liền hỏi:

“Cô biết lái máy bay tiêm kích thế nào sao?

” Ngọc Phi Yến từng lái máy bay trực thăng cứu hộ trên mặt nước, dạng Martin đơn giản, chứ chưa từng chạm vào chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh bao giờ, nên lắc đầu nói:

“Tôi không biết, chẳng lẽ anh thì biết khởi động nó bay lên trời sao?

” Tư Mã Khôi thầm nghĩ:

“Dù sao trước sau gì cũng chết, nhưng mình đã sống hai mươi mấy năm trời, mà đến tận giờ vẫn chưa hề được lái máy bay, thôi thì trước khi chết cũng phải lái nó một phen cho thật sướng đời mới được”.

Thế là anh vội đáp:

“Không biết lái mà cô còn dám chiếm vị trí này à?

”, nói xong chẳng cần để ý gì, liền xô Ngọc Phi Yến sang một bên, luồn người chui vào, tranh chiếc ghế phi công, nắm chắc cần điều khiển rồi kéo mạnh một cái về phía sau.

Lúc này, Hải ngọng ở phía sau cũng thò nửa người ra trước, anh không muốn bị rơi tan xác chút nào, tuy nói mọi vật từ xưa đến nay đều phải chết một lần, nhưng cách chết do máy bay rơi lại chẳng đẹp đẽ cho lắm.

Chắc trước đây anh từng mấy lần chơi game lái máy bay, nên tự phong cho mình chức phi công bán chuyên nghiệp:

“Thực ra cái này cũng chẳng có gì khó, cậu cứ buộc cục xương vào cái cần điều khiển thì cả chó cũng biết lái ấy chứ”.

Hải ngọng vừa đứng một bên chỉ chỉ chỏ chỏ Tư Mã Khôi thao tác như thế nào, vừa thò tay ra ấn loạn xạ tất cả các nút trên bàn điều khiển một hồi.

Ngọc Phi Yến thấy mấy gã liều mạng này rõ là đang nghịch lung tung, liền hoảng hốt quát:

“Các anh muốn chết phỏng?

”, lời còn chưa dứt thì một trận bùn đất cát đá bị sụt lở từ bên trên rào rào đổ xuống, phút chốc đã vùi lấp nửa thân máy bay, hàng loạt sợi rễ lần lượt đứt phựt, chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh lúc này hoàn toàn rơi vào tình trạng đầu chúc xuống, đít vống lên, trong tiếng kêu gào hoảng loạn như tuyệt mệnh của đội thám hiểm, chiếc máy bay lao vù vù xuống vực sâu mù mịt sương khí với tư thế dốc ngược dựng đứng.

Hồi 8 :

Hẻm núi khổng lồ Dưới sự tấn công dữ dội của hết cơn giông tố này đến đợt cuồng phong khác, lòng núi Dã Nhân đồi rung núi chuyển, trời sụp đất vỡ.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải lao vù vù với tốc độ kinh người xuống đáy khe núi, cùng với vô vàn đất bùn cát đá sụt lở.

Tư Mã Khôi quay cuồng nhào lộn trong khoang máy bay, chỉ thấy bên ngoài cửa sổ bóng tối hun hút bao trùm khắp nơi.

Anh thấy trời xoay đất chuyển, hoa mắt chóng mặt, tiếng gió ù ù vang lên bên tai, nhưng một hồi lâu vẫn chưa thấy máy bay phát nổ do đâm phải lòng đất.

Bốn xung quanh anh chỉ có màn sương đen bủa vây mù mịt, khiến người ta không thể cảm nhận được sự tồn tại của không gian và phương vị, như thể đang bị rơi xuống động không đáy vậy.

Trong lúc hỗn loạn, cũng chẳng biết có phải mình đã chạm vào nút gì hay không, chỉ thấy một chiếc đèn màu đỏ ở mặt đồng hồ trên bàn điều khiển đột nhiên sáng lên, Tư Mã Khôi thấy ánh đèn nhấp nháy bất định, trong lòng khẽ kích động, nhớ lại loại đèn này dường như là đèn tín hiệu cảnh báo, có lẽ chỉ phát ra khi máy bay bị mất lái hoặc sắp hạ cánh.

Tư Mã Khôi than thầm, sương khí dưới lòng khe núi núi Dã Nhân dày không thể lường, mênh mông như trời đất, vô hạn tựa tạo hóa, chỉ thần quỷ mới rõ khi nào chiếc máy bay vận tải này mới hạ cánh tiếp đất, bây giờ chỉ sợ muốn chết ngay cũng chẳng được nữa rồi.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải đặc biệt số hiệu “Rắn đen”, lao vù vù xuống dưới với tốc độ rất nhanh, nhưng khi chưa kịp đâm sầm vào mặt đất cho máy tan người nát, thì thân máy bay đột nhiên ngả dần ra.

Thì ra, nửa trên của khe núi mạch chạy bất quy tắc, gần như hoàn toàn là vách treo dựng đứng, nhưng đến dưới đáy vực thì không gian lại rộng rãi thoáng đãng hơn rất nhiều.

Hẻm núi này miệng hẹp, bụng rộng, bề mặt cắt ngang của nó tạo thành hình “kim tự tháp”, càng xuống sâu càng khoáng đạt, hơn thế, nữa địa lại thế vô cùng độc đáo, địa khí từ dưới bốc lên, dòng nhiệt khí đối lưu mạnh mẽ không ngừng lưu chuyển ngùn ngụt, nhờ đó mà tự nhiên đỡ được chiếc máy bay, khiến tốc độ rơi tự do của nó từ từ giảm dần.

Kết cấu ván gỗ ép của chiếc máy bay tiêm kích vận tải, từ trước đã được mệnh danh là “Chất gỗ kỳ tích”, trong hoàn cảnh đặc biệt gần tương tự với “hiệu ứng ống khói” sẽ phát huy tính ưu việt to lớn; nó giống như cánh diều đứt dây, nhào lộn giữa không trung mấy vòng, cuối cùng ngả ngả nghiêng nghiêng đáp xuống giữa dòng nước lặng.

Lúc tiếp đất, cánh trái máy bay bị gãy nát hoàn toàn, cánh quạt trên động cơ cũng bị đâm gãy; dưới tác dụng của quán tính, thân máy bay lật nghiêng, trượt dài một đường trên trăm mét mới dừng lại hẳn.

Tư Mã Khôi trong khoang máy bay cảm thấy ba hồn bảy vía như lao ra khỏi xác, khó khăn lắm mới ép nó về đúng chỗ, toàn thân trăm xương không chỗ nào không đau nhức.

Trong khi thần trí còn hoang mang bất định, anh vẫn nhận thức được cuối cùng máy bay cũng đã tiếp đất, chắc là mệnh mình chưa đến lúc tuyệt.

Rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống mà không hề bị tan xương nát thịt ngay tại chỗ, điều này hoàn toàn có thể nói là một kỳ tích; nhưng giờ đây hoàn cảnh chưa rõ trắng đen, anh cũng không thể dùng những câu đại loại như “đại nạn không chết, tất có phúc dày” để đánh lừa bản thân, mà chỉ thấy trong lòng không thể không thầm thốt lên một câu:

“Xem ra máy bay tiêm kích do người Anh chế tạo đúng là danh bất hư truyền, quả nhiên tỷ lệ sống sót cao đến kinh ngạc!” Tư Mã Khôi giãy đạp cố gắng đứng dậy, sờ thấy chiếc đèn pin tụ quang trên người, cầm nó chiếu sáng tứ phía, mắt bị chấn động hoa hết cả lên, nhìn cái gì cũng thấy nhập nhèm.

Anh lờ mờ thấy các thành viên khác trong đội vẫn tạm bình thường, may mà các thiết bị trong khoang máy rất gọn gàng ngăn nắp và mọi người đều thắt dây an toàn, tuy không tránh khỏi việc sứt đầu mẻ trán nhưng điều đáng mừng là chí ít chẳng ai bị gãy tay lìa chân.

Người bị thương nghiêm trọng nhất là Karaweik, trong lúc điên đảo quay cuồng, cậu bị rách một đường dài trên đầu, mặt đầm đìa máu, Tuyệt ở cạnh đang giúp cậu băng bó vết thương.

La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga đều ngã sưng mày tím mặt, nhưng cũng chẳng có gì đáng ngại lắm, chỉ là vẫn hoa mắt chóng mặt, nằm vật trong khoang máy bay mãi chẳng bò dậy nổi.

Tư Mã Khôi dùng đèn pin tụ quang chiếu sang Ngọc Phi Yến, tuy rằng cô ả mặt mày trắng bệnh như giấy sáp nhưng vẫn cố xua tay tỏ ý không sao.

Hai người họ đầu óc quay cuồng, tư duy có chút đình trệ, cùng nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy phóng tầm mắt đến chỗ nào, chỗ ấy đều tối như hũ nút, chỉ duy trên đỉnh đầu là có một sợi sáng mỏng lờ mờ ẩn hiện, nên nghĩ chắc đó chính là miệng khe núi lộ ra ngoài núi Dã Nhân, lúc sáng lúc tối trong tiếng sấm rền chớp giật.

Từ dưới đáy ngước nhìn lên trên, miệng hẻm núi rộng lớn khác thường ấy, lại chỉ mong manh như một đường chỉ, thực sự khó có thể tưởng tượng là rốt cục bản thân đang ở độ sâu bao nhiêu mét trong lòng núi.

Ngọc Phi Yến thầm kinh ngạc, cô không ngờ huyệt động trong lòng hẻm núi, có hướng thẳng đứng này, lại sâu đến dường vậy.

Nếu như gần đây không có lối nào khác đi ra khỏi núi, thì giữa không gian đáy động thâm u khó lường này, với độ cao không thể trèo lên như thế, quả thực đã trở thành “cơn ác mộng” mà đội thám hiểm khó có thể vượt qua.

Cô ta ra dấu tay, bảo Tư Mã Khôi ra bên ngoài xem xét tình hình.

Tư Mã Khôi khắp mình mẩy đau như thể gẫy lìa từng đoạn, đến nỗi phải hít ngược mấy hơi thở lạnh vào trong, rồi gắng sức đẩy nắp trên của máy bay ra, một cảm giác đơn độc cách biệt bất chợt ùa đến.

Lúc này, anh mới nhìn thấy màn sương khí dày đặc che phủ khắp nơi sâu trong huyệt động đều đã tiêu tan chẳng thấy đâu, chỉ có một lượng lớn nước ngưng đọng khắp vách núi, hình thành nên làn mưa bụi mênh mông không ngừng lất phất bay xuống.

Anh suy đoán:

có khả năng do diện tích sụt lở ở ven miệng hẻm núi quá lớn, đã làm thay đổi vòng tuần hoàn khí đối lưu dưới đáy động; ngoài ra, cuồng phong giông tố khiến nước đọng dưới tầng đất đá trong lòng núi nhanh chóng gia tăng, tràn vào những nơi sâu trong khe núi, trên không trung đang mưa ào ạt, dưới lòng động cũng ảnh hưởng mưa theo, nhờ vậy mới xua tan được đám sương khí mịt mù.

Xem ra, trước khi cơn bão nhiệt đới Buddha qua đi, lớp sương mù dày đặc dị thường này tạm thời sẽ không xuất hiện nữa.

Ngọc Phi Yến mau chống chiếu sáng mọi chỗ.

Cô ta lấy súng phát tín hiệu trong ba lô của Tư Mã Khôi, bắn lên hai chuỗi pháo sáng về hai hướng; hai chuỗi pháo phát ánh sáng chói lòa, trắng bạc, lần lượt vạch một đường rơi dài ở phương xa.

Do khu vực lân cận đều không bị sương mù dày đặc che phủ nữa, nên có thể mượn ánh sáng xanh mờ ảo, nhìn thấy thấp thoáng khoảng cách giữa đáy động với đỉnh khe núi, thực sự không thể đoán nổi; còn nếu chỉ dựa vào trực giác phán đoán độ cao thẳng đứng đó có lẽ phải trên ngàn mét.

Vách đá trong huyệt động hình kim tự tháp đều dựng đứng xiên lệch ra ngoài, nhìn nguy hiểm vô cùng, không có chỗ để con người có thể leo lên nổi, cho dù Tư Mã Khôi có giỏi thể hiện tuyệt kỹ:

“Bọ cạp đảo đầu bò tường” đi nữa thì cũng bó tay đầu hàng.

Đây dường như là một cái bẫy của tự nhiên, đã vào thì khó lòng ra.

Những kẻ gặp nạn rơi vào nơi này, đúng thực “Xẻ ngang đất rộng không móng sắc, uốn lượn tầng không thiếu cánh bay”.

Đáy khe núi thoai thoải, bốn phía đồng không mông quạnh, nhìn chẳng thấy bờ, tất cả đều là đầm lầy mênh mang do nước dưới lòng đất ngưng tụ lại mà thành; ở nơi xa tít còn có luồng sương khí mông lung chưa kịp tan, khói mờ nước rộng, sương tỏa núi sâu khiến người ta không thể nhìn rõ thực hư.

Khu vực đáy động lẽ ra phải là một cái hồ dưới lòng đất, nằm ở nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, nhưng do hệ thực vật ở đây um tùm rậm rạp, nên hầu hết nước tụ chưa kịp thẩm thấu xuống tầng đất đã bị rễ cây hút cạn veo, khiến cả lòng hồ dưới đất sâu biến thành đầm lầy.

Thêm vào đó, hàng chục triệu năm nay, vô số thực vật và bùn đất bị mưa gió quét từ trên đỉnh cốc xuống, dần dần tích tụ dưới đầm lầy, tạo thành một bờ đê dài miên man.

Lớp đất ẩm ướt trên bề mặt phủ đầy tầng tầng lớp lớp rêu xanh dày, đây đó thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng lân tinh yếu ớt do sinh vật mục nát hóa thành, ngước mắt ra xa, chỉ thấy mặt nước bập bềnh lên xuống, thật giả khó phân.

Huyệt động thâm u dưới lòng đất, từ trước đã là miền đất bí mật mà thế nhân khó lòng nhòm ngó.

Tuy rằng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót lọt xuống đáy cốc, lại có thể nhân lúc sương mù dày đặc tiêu tan, lợi dụng ánh sáng của pháo phát tín hiệu, đại thể đã nhìn rõ địa hình xung quanh, nhưng trong lòng ai nấy không những đều cảm thấy việc hãy chưa xong, mà ngược lại, một linh cảm bất an còn không ngừng trỗi dậy:

“Những gì nhìn thấy trước mắt chỉ là một góc phía trên của tảng băng trôi, không biết còn bao nhiêu bí mật kinh thiên động địa nữa vẫn bị niêm phong kín trong thế giới dưới lòng đất quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này”.

Ngọc Phi Yến tai mắt tinh nhanh, nên lúc pháo tín hiệu phát sáng lướt qua bầu trời, cô đã phát hiện xung quanh đầm nước và mặt đất ẩm ướt, dường như có vật gì đó đang bò rất nhanh phía ngoài chiếc máy bay vận tải, nhưng tốc độ di chuyển quả thực nhanh đến nỗi chưa kịp nhìn rõ rốt cục là thứ gì, thì bóng dáng của nó đã biến mất khỏi tầm mắt.

Cô ngẫm nghĩ:

“Trong khu vực đầm lầy âm u, ẩm ướt này, phần nhiều thường ẩn náu những sinh vật có tính tấn công rất cao như cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện; mạo hiểm rời khỏi máy bay lúc này đúng là không được thỏa đáng cho lắm”.

Thế là cô liền thay đổi chủ ý, nhắc nhở mọi người coi chừng động tĩnh bốn phía xung quanh, tạm thời không nên rời khỏi chiếc máy bay tiêm kích vận tải.

Nói xong, cô ta lại bắn thêm ba chuỗi pháo sáng phát tín hiệu lên cao, chiếu sáng toàn bộ tầm nhìn lân cận, đồng thời kéo nòng khẩu súng tự động Uzi trong tay lên đạn sẵn sàng, đề phòng lỡ đột ngột xảy ra biến cố gì.

Tư Mã Khôi thấy ánh sáng phát ra từ mấy chuỗi pháo gần chiếc máy bay vận tải, trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, yếu ớt chẳng khác chi ánh sáng đom đóm; rồi sau khi pháo sáng tắt lịm, bốn bề một lần nữa lại chìm vào sự tĩnh lặng yên ắng, sâu thẳm vô bờ bến.

Trước đây, không biết bao nhiêu lần anh từng tự hỏi, trong khe núi quanh năm bị sương mù che phủ rốt cục tồn tại thứ gì, nhưng trước sau đều không tìm ra nổi manh mối.

Lúc này, thân sa vào đây, anh càng cảm thấy khe động núi Dã Nhân quả thực hiểm ác phi thường.

Trải qua bao nhiêu tuế nguyệt mờ ảo như sương khói là bấy nhiêu năm tháng nó phải chịu cảnh mưa gọt gió bào, mãi cho đến tận ngày nay, vẫn mãi là góc chết mà tầm mắt loài người khó có thể nhận thức được.

Không chỉ có vậy, trong dải bóng tối mênh mông này chắc chắn còn ẩn chứa một bí mật sâu xa nào đó khó có thể vạch trần.

Anh càng nghĩ càng cảm thấy phức tạp, tư duy chìm đắm miên man, không khỏi có đôi chút bần thần.

Anh tư lự mãi một hồi lâu chẳng nói câu gì.

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi cũng có lúc không biết nói gì, lại cảm thấy có vài phần bất ngờ, bèn đưa khẩu súng đang cầm trong tay cho anh, nhắc anh hãy chú ý quan sát tình hình xung quanh chiếc tiêm kích vận tải.

Sau đó cô liền khom lưng lần ra phía sau khoang, lần lượt kiểm tra hàng hóa sắp đặt trong khoang, tìm kiếm vật phẩm mà khách hàng ủy thác, khi đã lấy được sẽ lập tức nghĩ cách tìm lối ra, rút lui khỏi núi Dã Nhân.

Ba mươi mấy thành viên của đội thám hiểm, bây giờ chỉ còn sáu kẻ may mắn sống sót, đồng thời lại bị rơi xuống nơi sâu nhất của khe núi núi Dã Nhân cùng với chiếc máy bay vận tải đã mất tích nhiều năm.

Nhưng tước bỏ hết những yếu tố ly kỳ khó có thể giải thích, mà mọi người đã gặp phải sang một bên, thì sự việc tiến triển vẫn quá đỗi bất ngờ, đầu tiên là vô tình tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải “Rắn đen” ngay trong khoảnh khắc đầu tiên, rồi sự xâm nhập của cơn bão nhiệt đới khiến cho sương mù trào ra từ lòng đất bị suy giảm đi rất nhiều, và điều quan trọng nhất là “hàng” trong khoang máy bay không ngờ lại vẫn còn nguyên.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cải tiến thịnh hành trong chiến tranh thế giới thứ hai này, thuộc loại máy bay hạng trung.

Khoang máy bay rộng rãi, chia làm ba phần, xuyên suốt từ đầu đến cuối, không hề có bức ngăn nào ở giữa.

Phần đầu là khoang lái, phần giữa và phần sau là khoảng không gian cần thiết để chuyên chở người và hàng hóa.

Phần sau của máy bay buộc chặt bốn chiếc hòm gỗ hình chữ nhật, đã được niêm phong kín, phía ngoài còn bọc bằng lớp áo mưa dày nặng.

Hai chiếc hòm buộc thành một cọc, khóa lại rất chắc chắn, nên trong suốt quá trình rung lắc, động chạm dữ dội khi nãy mà nó không hề có vết tích bị lỏng lẻo hay xô lệch gì, nhưng trên mặt hòm, ngoại trừ một vài con số đánh ký hiệu ra, thì chẳng hề có bất kỳ biểu tượng gì khác.

Ngọc Phi Yến bảo Tuyệt cầm đèn halogen, giúp mình chiếu sáng bên trong khoang máy bay, lại lệnh cho gã Gấu trắng người Nga dùng giáo mỏ vịt cạy nắp hòm hàng.

Đang đợi bắt tay vào làm, đột nhiên họ lại nghe thấy dường như có người đang nói gì đó ở góc tối trong khoang máy bay.

Tư Mã Khôi nghe âm thanh tuy hơi yếu ớt, nhưng rõ ràng là phát ra ngay phía sau.

Máy điện đàm không dây của máy bay đã hoàn toàn hỏng hóc, không thể tiếp nhận bất kỳ thông tin liên lạc nào.

Tuy rằng, tình hình trong hòm hàng tạm thời vẫn chưa nhìn thấy, nhưng từ đầu đến giờ đều bị niêm phong kín mít, cho dù thực sự có người sống trốn bên trong, thì cũng chết ngạt từ bao giờ.

Hơn nữa, vị trí phát ra giọng nói này có lẽ đến từ khoang giữa máy bay, phía nhóm mấy người La Đại Hải đang đứng; bây giờ đội thám hiểm chỉ còn sót lại mấy kẻ may mắn thoát chết.

Ngoại trừ gã Gấu trắng người Nga coi như nửa câm ra, thì mấy người còn lại có nói gì, Tư Mã Khôi tự khắc hiểu rất rõ, nhưng giọng nói vừa vọng đến khi nãy nghe vô cùng cổ quái, rõ ràng còn có người khác nữa.

Tư Mã Khôi lập tức đề cao cảnh giác:

“Trong khoang máy bay chắc chắn có kẻ lạ!” .

Đang lúc anh định dỏng tai lên nghe lại, thì chẳng thấy tiếng gì phát ra nữa.

Tư Mã Khôi còn cho rằng chắc tại mình căng thẳng thần kinh, nên nảy sinh ra ảo thanh, anh bèn quay đầu lại hỏi Ngọc Phi Yến – người cách anh gần nhất:

“Khi nãy cô có nghe thấy gì không?

” Ngọc Phi Yến cũng phát hiện thấy sự thể khác thường.

Cô ta từng nhiều lần giao tiếp với khách hàng Âu Mỹ, có thể nghe ra người vừa nói lúc nãy mang khẩu âm Anh rất rõ rệt, liền trả lời Tư Mã Khôi:

“Dường như có một người Anh, ông ta nói hàng trong khoang máy bay… rất nguy hiểm”.

Trong huyệt động dưới lòng đất sâu như vực thẳm vốn dĩ chỉ có bóng tối âm u bao trùm, trong khoang máy bay bị rò nước mưa nhỏ hẹp này chỉ có một ngọn đèn halogen, mọi người tuy ở gần nhau, nhưng ngay cả mặt mũi và bóng hình của đối phương cũng nhìn chẳng rõ.

Có điều, cũng chính vì không gian chật chội, hơn nữa khoảng cách lại cực gần, cho nên qua hơi thở tồn tại trên cơ thể người sống, mọi người vẫn có thể cảm nhận được.

Tư Mã Khôi có thể khẳng định, bao gồm cả chính mình, thì trong khoang máy bay chỉ có sáu người, làm sao có thể đột nhiên lại nhiều thêm một người được?

Trừ khi người Anh mà Ngọc Phi Yến vừa nói đến… là “vong hồn” của phi công không quân Hoàng gia Anh.

Hồi 9 :

Giọng nói Tư Mã Khôi đột nhiên nghe thấy bên cạnh có người nói, nhưng trong khoang máy bay rõ ràng không có người còn sống nào khác.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, số hiệu “Rắn đen”, trong khoang từ đầu đến cuối đều thông suốt, tuy rằng tối mò mò, nhưng cầm đèn halogen lên soi, thì có thể soi trực tiếp rõ từ đầu này đến tận đầu kia.

Tất cả khoảng không gian chỉ rộng một nắm tay, thì làm gì còn nơi nào để cho người có thể lẩn trốn.

Hay chăng, ngoại trừ sáu thành viên may mắn sống sót của đoàn thám hiểm ra, trong chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích nhiều năm này, còn có một vong linh của viên phi công người Anh đang ẩn náu?

Thông tin giống như lời cảnh báo kia, dường như đến từ một thế giới khác, không chỉ có hai người Ngọc Phi Yến và Tư Mã Khôi nghe thấy, mà gã Gấu trắng người Nga đang ngồi ở khoang giữa cũng nghe thấy rõ mồn một.

Gã theo đoàn thám hiểm thâm nhập vào lòng núi Dã Nhân, chẳng qua cũng chỉ vì món thù lao khổng lồ.

Có điều, gã hoàn toàn chẳng thể ngờ, sẽ gặp bao nhiêu tình huống phức tạp ngoài sức tưởng tượng ở trong núi đến thế, hơn nữa càng lún càng sâu, đến khi gã muốn phủi tay không làm, thì phát hiện đã chẳng thể thoát thân, nên đành phải tiếp tục đồng hành cùng những kẻ sống sót còn lại.

Sau khi chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống đáy khe núi, gã Gấu trắng tuy rằng chẳng gặp thương tích gì nghiêm trọng, nhưng tâm thần lại bị chấn động không nhẹ, đầu óc mụ mẫm “nam bắc khó phân, đông tây khó định”, tuy rằng thân thể đã chạm đất, nhưng lục phủ ngũ tạng hãy còn treo lơ lửng giữa tầng không, chưa chịu chui vào vị trí cũ.

Gã chẳng theo tín ngưỡng nào, tâm tính lạnh lùng tàn nhẫn, từ trước đến giờ chẳng biết sợ sệt thứ gì.

Trong quá trình chiếc máy bay bị rơi xuống, khoang máy bay hoàn toàn tối om, bên ngoài càng âm âm u u, mù mù mịt mịt.

Gấu trắng ngồi trên ghế nệm, mình thắt dây an toàn, tay nắm chặt sợi dây thừng, trong cơn rung lắc dữ dội, thân thể bị quăng đi quật lại theo quán tính.

Gã đã từng đi rất nhiều loại máy bay khác nhau, thậm chí còn bị lửa pháo phòng không trên mặt đất bắn trúng, nhưng cũng chưa từng hoảng hốt mất phương hướng, bởi vì gã biết gặp những tình huống như thế, sợ cũng vô tác dụng, nên chỉ còn biết tuân theo mệnh trời mà thôi.

Nhưng giờ đây, trong khoang máy bay chật chội âm u này, gã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh tiếng nói của một người Anh, việc này hoàn toàn vượt ra khỏi nhận thức thông thường của gã.

Trước đây, khi còn là lính đánh thuê, gã từng tiếp xúc với một vài người Anh, khẩu âm Anh nằng nặng không thể trộn lẫn vào đâu được.

Thế nhưng trước mắt trong chiếc “Rắn đen” này căn bản chẳng có người Anh nào, thiết bị liên lạc ở khoang lái rõ ràng cũng đã bị hư hại, thì vì sao lại có tiếng thì thầm của người Anh?

Ngoài ra, chiếc máy bay vận tải đã mất tích hơn hai mươi năm, vì sao mãi đến tận giờ này phút này, vẫn có thể bảo dưỡng y nguyên như mới?

Và vì sao trước khi vào khe núi núi Dã Nhân, lại nhìn thấy chiếc bóng đen sì sì của nó bay lượn là là trên đỉnh đầu?

Tổng hợp tất cả những hiện tượng khó giải thích này lại, chỉ làm rõ cho một vấn đề, đó là chiếc máy bay vận tải này đang “gặp ma”, hơn nữa trong máy bay còn lẩn khuất một vong hồn của phi công không quân hoàng gia, cho nên mới nghe thấy giọng nói của vong hồn.

Tuy gã Gấu trắng không nghe rõ được hết toàn bộ nội dung, nhưng vẫn có một vài từ chập chờn lọt vào tai, vong hồn của viên phi công không quân Anh dường như muốn cảnh báo đội thám hiểm:

“Hàng trong khoang máy bay vận tải – cực kỳ nguy hiểm!”.

Gấu trắng chẳng tin bất cứ ai, nhưng lại vô cùng tin tưởng vào đôi tai của chính mình, gã ra hiệu bằng tay với Ngọc Phi Yến:

“Chiếc máy bay này quả thực quá bất thường, trước khi điều tra rõ ràng toàn bộ sự việc, tốt nhất không nên động chạm bừa bãi vào bất kỳ vật gì, nếu không rất có thể sẽ dính họa sát thân”.

Ngọc Phi Yến luôn lo lắng khe động núi Dã Nhân sẽ liên tục sụt lở do sự công kích của bão nhiệt đới, mà nếu huyệt động hình kim tự tháp này sụp xuống hoàn toàn, mọi người sẽ đều bị chôn sống dưới đáy; vậy nên việc cần làm trước mắt chính là mau chóng lấy được “hàng” trong khoang máy bay, sau đó lập tức tìm kiếm lối ra, đợi khi cơn bão Buddha suy yếu thì cả hội sẽ tháo chạy ra khỏi núi Dã Nhân.

Nhưng đến đúng khớp này thì xảy ra sự bất ngờ, trước khi chiếc máy bay vận tải rơi xuống đáy cốc, cô ta hoàn toàn chưa kịp quan sát kỹ tình hình bên trong khoang; nhưng lúc này, cô ta lấy đèn halogen chiếu sáng trước sau trái phải một hồi, thì cũng làm gì có tên người Anh nào trốn trong khoang?

Theo tư liệu ghi chép của quân Anh, mà cô nắm giữa trong tay, chiếc máy bay tiêm kích số hiệu “Rắn đen” trong lúc chấp hành nhiệm vụ ở Miến Điện và mất tích tại nơi sâu nhất trong đám sương mù dày đặc dưới lòng khe núi núi Dã Nhân, khi đó, bao gồm cả phi công, trong khoang máy bay có tất cả ba thành viên.

Chẳng lẽ vong hồn của họ đều hãy còn lởn vởn quanh nơi này?

Họ không chịu để người khác động chạm vào “hàng” trong khoang máy bay?

Trong lúc mọi người đang rối như tơ vò vì sự việc ly kỳ diễn ra trước mắt, thì thấy Karaweik đầu băng bó trắng toát, tay cầm một vật màu đen đưa ra trước mặt Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi:

“Đây là cái gì thế?

Karaweik tỏ ra luống cuống, cậu hoa chân múa tay nói một hồi lâu, may mà có Tuyệt đứng bên cạnh phiên dịch giúp, nên mọi người cuối cùng cũng hiểu rõ.

Thì ra, sau khi chui vào khoang máy bay trốn, chiếc máy bay vận tải lập tức bắt đầu rơi tự do với tốc độ kinh khủng, cậu đột nhiên cảm thấy có một vật đập vào người.

Trong lúc hoảng hốt, chẳng nhìn rõ là vật gì, cậu liền thuận tay bắt lấy.

Lúc ấy cũng không hiểu ấn vào chỗ nào, tự dưng thấy có tiếng nói chuyện phát ra từ bên trong, khiến Karaweik giật nảy người, sau đó chiếc máy bay va chạm vào dòng khí lưu thông lượn vòng dưới khe núi.

Trong lúc thân máy bay rung lắc điên đảo, đầu cậu bị đập mạnh, rách một miếng to, rồi từ đó mất hết cảm giác.

Khi tỉnh lại, cậu thấy mình vẫn nắm vật ấy trong tay, ấn một cái lại thấy có tiếng nói phát ra nên Karaweik cảm thấy rất thích thú.

Theo luật lệ bất thành văn của đội du kích cộng hòa sản Miến Điện, trên chiến trường, những vật vô chủ và những vật trên cơ thể người chết, ai nhặt được thì coi như của người ấy, còn ở đây chẳng có ba mục kỷ luật, tám điều quy định gì cả, cũng chẳng hề có khái niệm “tất cả đều phải xung công”, thế là cậu liền nhặt bỏ vào túi, định giữ làm của riêng.

Thế rồi đợi khi nhìn thấy năm người còn lại chẳng ai nói câu gì, Karaweik mới mang vật đó đưa cho Tư Mã Khôi xem, muốn nhờ anh chỉ cho cậu cách sử dụng như thế nào.

Nhóm mấy người quan sát vật mà Karaweik nhặt được, thì ra là đó là chiếc máy thu âm loại nhỏ, kiểu cầm tay giống như máy dùng để phỏng vấn, mặt ngang còn cắm chiếc micro có dây.

Lúc này mọi người mới vỡ lẽ, tiếng nói của người Anh nghe được lúc trong khoang máy bay đều từ đây mà ra.

Tư Mã Khôi đúng là lắc đầu bất lực với cái kiểu ngờ nghệch, dạy mãi không khôn của người Miến Điện, nhưng sợi thần kinh đang căng như dây đàn cuối cùng cũng chùng xuống một đoạn.

La Đại Hải giơ tay gõ đầu Karaweik một cái:

“Ranh con nhà cậu, suýt chút nữa khiến hồn vía bọn anh dạt nhà bỏ đi rồi đấy!” Karaweik ú ớ chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác.

Ngọc Phi Yến thấy cả hội chỉ là sợ bóng sợ gió, nhưng cuốn băng trong máy ghi âm dường như có nhắc đến thông tin gì đó có liên quan đến “hàng” nên trong lòng cô cũng đang có rất nhiều nghi hoặc khó lòng giải thích.

Gấp gáp muốn tìm đáp án từ trong cuốn băng, cô bèn quyết định sẽ nghe lại từ đầu đến cuối, rồi sau đó căn cứ theo tình hình thực tế để lấy hàng trong khoang.

Nghĩ vậy, cô liền khuyên can:

“Dù sao sai một chút và sai một trăm chút cũng chẳng khác nhau là bao, các anh đừng trách cứ người anh em nhỏ tuổi này nữa, cậu ta thì hiểu được gì chứ?

” Nói xong, cô lập tức tua lại cuốn băng, rồi cẩn thận nghe lại từ đầu, phát hiện giọng nói ghi âm trong cuốn băng quả nhiên là của một người Anh.

Trừ Tư Mã Khôi và La Đại Hải ra, thì những người còn lại đều ít nhiều hiểu tiếng Anh, nhưng hai người này làm gì có chuyện ngồi yên một bên mà giương mắt nghe như vịt nghe sấm.

Ngọc Phi Yến cũng chẳng biết làm sao, đành phải nghe một đoạn, lại dịch một đoạn cho họ.

Không ngờ sự việc nghe được sau đó lại khiến mọi người cảm thấy kinh ngạc, đầu óc như muốn nổ tung, vì nội dung ghi lại trong cuốn băng còn đáng sợ gấp nhiều lần việc gặp phải vong hồn phi công không quân Anh dưới lòng đất như họ nghĩ.

Người ghi âm là một chuyên gia thám hiểm hang động người Anh, tên là Wilson.

Anh đã tự mình ghi âm cuốn băng dựa theo thời gian thực tế, bắt đầu từ thời khắc chiếc máy bay vận tải cất cánh tại sân bay, đồng thời nói rằng nếu như có người phát hiện ra cuốn băng này, thì có nghĩa là anh ta đã lâm nạn.

Trên đường phi hành, Wilson hồi tưởng ngắn gọn những điều mình đã trải qua, tự nhận đội của anh là phân đội tinh nhuệ có kinh nghiệm phong phú, bao gồm những phi hành viên ưu tú nhất, có chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo và hiện tượng siêu nhiên, cũng có quân nhân phục viên từ binh chủng không quân, họ không thuộc tổ chức chính trị nào mà chỉ làm việc vì tiền.

Lần này, nhận đơn hàng từ một khách hàng không lộ diện, mục tiêu là tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích dưới khe núi núi Dã Nhân, nghe nói trong khoang vận tải chất đầy châu ngọc quý hiếm mà bọn thực dân Anh đã cướp đoạt từ Miến Điện, có điều cụ thể là hàng gì thì tuyệt đối cơ mật, nên ngoại trừ đội trưởng ra, các thành viên khác hoàn toàn không hề hay biết.

Qua nhiều lần thăm dò và trinh sát trên không, bước đầu đã xác minh được kết cấu địa hình trong lòng khe núi:

đây là một huyệt động khổng lồ mặt cắt hình kim tự tháp, sâu rộng không thể lường, bề ngang tương đối hẹp.

Căn cứ vào thông tin liên lạc qua bộ máy điện đàm không dây của phi công lái chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, thì có lẽ nó đã rơi xuống sườn nam.

Đội thám hiểm đồng thời cũng phát hiện:

bất luận trên mặt đất hay dưới lòng đất, đường bộ hay đường thủy, đều không có con đường nào tuyệt đối an toàn để đi xuyên vào núi.

Ngoại trừ màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất, núi Dã Nhân còn tồn tại một lượng lớn các di tích cổ đại:

có điều, phần lớn trong số chúng đều bị hủy hoại nghiêm trọng, nên không thể phán đoán hay khảo nghiệm bối cảnh văn hóa và cội nguồn lịch sử của nó, vì dường như người cổ đại muốn che đậy một bí mật nào đó, đồng thời họ cài đặt trùng điệp cạm bẫy để bảo vệ nó.

Trong khi ấy, chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở bảo vật cổ đại Miến Điện lại rơi đúng xuống núi Dã Nhân, tất cả những việc đó phải chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên?

Wilson cho rằng có thể mình chỉ quá đa nghi mà thôi, nhưng những ai càng nghiên cứu sâu về luật logic thì càng nên coi trọng sự trùng hợp đó.

Thật không may, tất cả những đội thám hiểm trước đây định vào núi đều không rõ tông tích, và gần như chẳng có kẻ may mắn nào sống sót trở về.

Đối với những nhà thám hiểm chuyên nghiệp được trang bị tinh nhuệ, có kinh nghiệm phong phú, rèn luyện qua các lớp đào tạo cao cấp và vũ trang đến tận răng, thì địa hình ngoại vi núi Dã Nhân phức tạp và các loài mãng xà, độc trùng chẳng phải trở ngại tuyệt đối.

Hiểm họa thực sự là đến từ màn sương bí ẩn quanh năm không tiêu tan ở sâu trong núi, sương khí mù mịt bao trùm cả cánh rừng nguyên sinh xung quanh khe núi, đã khiến người ngoài khó lòng nhìn thấu những bí mật bên trong của nó.

Đội thám hiểm Anh của Wilson đã nghĩ ra một kế hoạch gần như là điên cuồng, họ cho rằng chiếc máy bay tiêm kích của không quân hoàng gia năm đó, sở dĩ có thể hạ cánh xuống vùng sương mù ở nơi sâu trong khe núi, là do có hai điểm thuận lợi, thứ nhất là kết cấu chất liệu đặc biệt của loại máy bay tiêm kích, thứ hai là tác dụng của dòng khí lưu thông mà địa hình đặc biệt trong khe núi sản sinh ra; nhưng nếu giả dụ thay vào chiếc máy bay khác, chắc chắn là sẽ bị quá nhẹ hoặc quá nặng, không thể vừa vặn như chiếc tiêm kích.

Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng có khả năng là một trong những nhân tố quyết định, vào ngày chiếc tiêm kích vận tải số hiệu “Rắn đen” mất tích, cũng là ngày cơn bão nhiệt đới di chuyển về hướng bắc, khiến phần lớn vành đai địa hình khe núi núi Dã Nhân bị lộ ra khỏi lớp sương mù dày đặc.

Nếu bây giờ muốn vào sâu trong khe núi, chỉ có đợi đến khi cơn bão nhiệt đới lại đến một lần nữa, đồng thời còn phải sử dụng chiếc máy bay tiêm kích cùng số hiệu với chiếc đã mất tích, thì mới hi vọng đạt được mục đích.

Nơi sâu trong núi Dã Nhân có khu vực bom mìn, sương mù, độc trùng và các loại tà thuật, khiến người phương Tây khó lòng lý giải, cho nên bọn họ dự định đáp chiếc máy bay tiêm kích giống nhau, nhân lúc thời tiết thay đổi, mạo hiểm tiến vào nơi sâu nhất dưới khe núi, rồi sau khi thành công sẽ nghĩ cách đáp khinh khí cầu rút lui.

Mãi cho đến cuối những năm sáu mươi, vẫn có thể tìm thấy bóng dáng máy bay tiêm kích ở những khu vực tương đối lạc hậu.

Họ đã vất vả ngược xuôi một phen, cuối cùng cũng tìm được chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, có cùng số hiệu với chiếc “Rắn đen”, ở một nơi nào đó thuộc khu vực Đông Nam Á.

Gần núi Dã Nhân tồn tại rất nhiều tô tem (1) mãng xà, chiếc máy bay rơi xuống vùng sương mù mang số hiệu “Rắn đen”, mạch chạy của khe núi ngoằn ngoèo như rắn lượn, thậm chí ngay cả con đường U Linh mà liên quân Trung – Mỹ đã xây dựng cũng dài như hình rắn.

Đội thám hiểm Anh phán đoán:

có lẽ “rắn” là chiếc chìa khóa liên kết toàn bộ bí mật trong núi Dã Nhân.

Thế là họ liền tìm một chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó tiến hành cải tiến, làm mới từ trong ra ngoài, bao gồm cả nước sơn, tất cả đều hoàn toàn giống như đúc với chiếc máy bay bị mất tích, rồi đặt tên cho nó là “Rắn đen II” với hi vọng nó có thể đem lại may mắn cho đoàn thám hiểm.

Đội thám hiểm Anh mua đứt một sân bay kín đáo, do lực lượng vũ trang địa phương khống chế, ở khu vực phi chính phủ giáp ranh Cam Miến, rồi nhân lúc cơn bão nhiệt đới Buddha xâm nhập, họ đáp chiếc Rắn đen II bay vào núi Dã Nhân.

Kế hoạch này vô cùng mạo hiểm, thiên thời địa lợi nhân hòa, dũng khí kỹ thuật, chỉ cần thiếu bất kỳ nhân tố nhỏ nào cũng đều có khả năng ảnh hưởng đến vận mệnh cuối cùng, vì sự thay đổi bất thường luôn mang lại những khó khăn không thể tưởng tượng.

Nhưng đối mặt với món thù lao thuộc khổng lồ và cảm giác sứ mệnh to lớn vô hình nào đó đã khiến đội thám hiểm dưới sự thôi thúc của tâm lý đầu cơ, vẫn quyết định lao vào dù biết rõ khó khăn.

Wilson thẳng thắn thừa nhận:

“Tính nguy hiểm của nhiệm vụ lần này vô cùng lớn, có khả năng không còn đường trở về, nhưng hi vọng những gì chúng tôi làm là có giá trị”.

Sau khi chiếc máy bay vận tải Rắn đen II cất cánh, nó bay lượn rất lâu trên bầu trời vùng núi, không ngờ thời tiết biến đổi càng lúc càng khắc nghiệt, đằng xa bắt đầu xuất hiện tiếng sấm rền vang dội, sương mù dày đặc gần khe núi cũng không hạ xuống đến mức thấp như dự tính ban đầu.

Mọi việc đều không hội tụ đủ điều kiện giống trong kế hoạch, bởi vậy phi công đành đề nghị từ bỏ chuyến hành động này.

Nhưng giữa khoảnh khắc cả đoàn đang bay là là vượt qua khe núi, thì đột nhiên xuất hiện chiếc máy bay tiêm kích vận tải u linh như một bóng ma từ trong dải mây mù ngưng tụ không tan biến lừ lừ bay ra.

Wilson nói:

“Đó chính là chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm trước của không quân Hoàng gia Anh, nó lao thẳng vào chúng tôi mà không phát ra một tiếng động nhỏ, đến khi phi công phát hiện thấy nó, đồng thời định chuyển hướng né tránh, thì mọi sự đã quá muộn.

Chiếc Rắn đen II của chúng tôi đâm trúng chiếc máy bay xuất hiện từ đám sương mù.

Lạ một điều, tuy rằng đột ngột xảy ra va chạm giữa không trung, nhưng lại chẳng hề khiến chiếc Rắn đen II phát nổ ngay lập tức, mà cảm giác giống như đâm vào một màn sương dày đặc, nhìn không rõ, sờ không thấy, còn chiếc máy bay vận tải đối diện dường như vốn dĩ chỉ là ảo ảnh không hề tồn tại.

Nhưng điều khiến mọi người khó hiểu nhất là:

trong khoảnh khắc va chạm với chiếc máy bay u linh kia, hai động cơ của chiếc Rắn đen II liền ngừng hoạt động, các thiết bị khác cũng hoàn toàn không thể điều khiển nổi, khoang máy bay phút chốc trở nên tối mù, rồi rơi thẳng xuống khe núi trong tình trạng mất lái.

May nhờ thượng đế che chở, nên chiếc Rắn đen II thoát khỏi họa máy tan người nát.

Nó bị vướng vào các rễ cây cổ thụ, treo lơ lửng giữa không trung.

Đợi khi các thành viên lần lượt tỉnh lại khỏi hôn mê, phát hiện sương mù hoàn toàn che khuất tầm nhìn phía ngoài khoang, chẳng rõ mình bị rơi xuống phương nào, để duy trì tầm nhìn với khoảng cách nhất định trong sương mù, đội thám hiểm Anh liền bật sáng mấy ngọn đèn halogen cường quang đã chuẩn bị từ trước, vì nó có thể xuyên thấu những tạp chất trong sương mù với hạn độ lớn nhất.

Sau đó mọi người mở cửa máy bay ra ngoài, dùng đèn halogen nhiều bóng soi chiếu địa hình gần “điểm rơi”.

Lúc này đội trưởng đội thám hiểm lại nhắc nhở mọi người thêm lần nữa:

nếu tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trước khi có sự cho phép của anh ấy, tuyệt đối không ai được mở hòm hàng, bởi vì “hàng” chở trong máy bay cực kỳ nguy hiểm”.

Có điều, lúc này vận đen của đội thám hiểm Anh chỉ vừa mới bắt đầu, ánh sáng cực mạnh phát ra bởi đèn chiếu trên máy bay không ngờ lại dẫn dụ một vật thể to lớn dị thường từ nơi sâu trong đám sương mù đi ra

- Wilson miêu tả vật thể đó là “vật thể sống” với giọng kinh hoàng tột độ, nó nuốt chửng cả chiếc Rắn đen II, tiếp sau đó là một loạt tạp âm hỗn loạn điếc tai cùng tiếng gào thét hoảng loạn, rồi băng ghi âm ngừng lại ở đây.

****** (1) Tô tem:

Tôn giáo của người nguyên thủy, coi một động vật hay thực vật nào đó là tổ tiên của mình và thờ nó.

Mạng Y Tế

Nguồn: https://amp.mangyte.vn/truyendoc-me-tong-chi-quoc-bao-nhiet-doi-buddha-112971.html