Mê Tông Chi Quốc - Động không đáy kinh hoàng - Mê Tông Chi Quốc

Mê Tông Chi Quốc

Tác giả : Chưa rõ
Chương 12 : Mê Tông Chi Quốc - Động không đáy kinh hoàng

Hồi 1 :

Súng săn Dường như tất cả các đội thám hiểm vào núi Dã Nhân đều suy xét kỹ lưỡng đến những trở ngại và nguy hiểm có thể gặp phải, nhưng hiểm họa khó lòng dự tính nhất lại đến từ màn sương khí không ngừng trào ra dưới lòng đất.

Ngoại trừ những kẻ mất tích vĩnh viễn bị nhốt trong đám sương mù bí ẩn, thì e rằng trên thế giới chẳng còn người nào khác có thể giải đáp xem rốt cục họ đã gặp phải điều gì trong đám sương mù, cũng không biết cội nguồn của nó xuất phát từ đâu.

Nếu phán đoán theo lý lẽ thông thường, sương mù có khả năng khiến con người nảy sinh ảo giác, hoặc giả sương mù có hàm chứa độc tố, nhưng dựa vào kinh nghiệm phong phú, vũ khí tiên tiến hiện đại, cộng thêm một chút vận may không thể thiếu, thì lẽ ra họ cũng phải có cơ hội để rút lui an toàn khỏi núi mới phải.

Không chỉ có hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến nghĩ như vậy, mà ngay cả đội thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II cũng ôm hi vọng về sự may mắn đó.

Để đối phó với màn sương mù ngàn năm nằm sâu trong khe động khổng lồ, họ đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cần thiết, bao gồm các loại biện pháp phòng độc cùng nhiều thiết bị chiếu sáng cường quang sử dụng trong sương mù.

Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, bao trùm dưới màn sương mù dày đặc ấy lại tồn tại một thứ gì đó khiến con người hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Cuộn băng ghi âm mà Wilson để lại khiến mọi người nghe xong đều thất sắc, im lặng mãi một hồi lâu.

Nội dung mà cuốn băng nhắc đến đã hoàn toàn đảo lộn toàn bộ nhận thức về các sự việc của họ trước đây.

Ngọc Phi Yến biết rất rõ trong lòng, hội của cô và đoàn thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II, chắc chắn đều có cùng một “khách hàng” ngồi phía sau màn diễn.

Theo thông lệ quốc tế, nếu khách hàng đã thuê một nhóm người truy tìm tông tích chiếc máy bay vận tải bị mất tích, thì trước khi nhóm người đó thất thủ hoặc từ bỏ, sẽ không cho phép người khác nhúng tay vào.

Nếu biết trước cơ sự như vậy, bọn cô ta đã chẳng thèm lao vào để uống ngụm nước đục này.

Ngọc Phi Yến lại nghĩ đến lúc cùng Tư Mã Khôi phát hiện ra chiếc máy bay tiêm kích vận tải, khi ấy sương mù trong khe núi đã hạ xuống mức thấp và chiếc Rắn đen II cũng không có biểu hiện gì bất thường, trong khoang chẳng thấy vết tích thể người Anh nào.

Căn cứ vào đó có thể suy đoán:

“vật thể sống” mà cuộn băng ghi âm nhắc đến, chỉ hoạt động trong phạm vi sương mù bao phủ, hơn nữa, chính “ánh đèn” đã dẫn dụ nó ra khỏi đám sương mù.

Lúc này Tư Mã Khôi đã cậy được nắp hòm hàng trong khoang máy bay, vừa nhìn quả nhiên bên trong chứa toàn trang thiết bị và vật dụng mà đội thám hiểm Anh mang theo, chứ không phải “báu vật Miến Điện” mà Ngọc Phi Yến đang mất công tìm kiếm.

Anh thấy thần sắc mọi người đều vô cùng nặng nề, như thể đại nạn đang sắp sửa giáng xuống đầu, liền tìm một lý do an ủi:

“Chí ít cuốn băng ghi âm cũng giúp chúng ta giải thích một việc, đó là chiếc máy bay chúng ta gặp trong khe núi là chiếc Rắn đen II, chứ không phải oan hồn mấy chục năm trước vẫn lởn vởn trong sương mù còn gì !”.

Ngọc Phi Yến liếc Tư Mã Khôi một cái rồi nói:

“Anh việc gì phải lừa người rồi tự lừa mình như thế.

Chiếc máy bay mà chúng ta gặp quả đúng là chiếc Rắn đen II, nhưng rốt cục nó đã đâm phải cái gì trong đám sương mù ấy?

” Tư Mã Khôi nói, chiếc Rắn đen II đã đâm chính diện vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, nhưng lại không hề xảy ra cháy nổ, tôi nghĩ chắc là do “sương mù”.

Nghe nói trên đời thường xuất hiện ảo ảnh “thành phố trên mặt nước, thành phố trong núi”, buổi tối ở những khu nghĩa địa hoang vắng còn có “thành ma”.

Vật đột ngột xuất hiện từ trong lớp sương mù, quá nửa chỉ là hình ảnh mấy chục năm trước còn lưu lại của chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích mà thôi.

Cuối thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ có một trung đội máy bay chiến đấu Mustang P-51.

Trong khi đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Thái Bình Dương, đột nhiên họ phát hiện không phận phía đối diện xuất hiện hàng loạt máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M Zero của quân Nhật, trong khi hạm đội liên hợp Nhật Bản lúc đó đã hoàn toàn không còn tồn tại, không quân và hải quân đều đã bị đánh cho tan tác, và đã sớm mất quyền khống chế trên khu vực từ lâu.

Vậy thì làm sao còn có thể xuất hiện cả đội quân với quy mô cực lớn và chỉnh tề như vậy?

Trong lúc phi công máy bay chiến đấu Mỹ định phát đòn công kích, thì toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tông tích, trước mắt họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn.

Thông qua liên lạc họ được biết:

sóng ra-đa hải quân tuần tra ở khu vực lân cận trước sau không hề xuất hiện bất kỳ phản ứng bất thường nào.

Khi đó toàn bộ thành viên phi hành của trung đội bay chiến đấu Mustang đều tròn mắt ngạc nhiên, chẳng ai rõ cảnh tượng họ tận mắt chứng kiến khi nãy rốt cục là chuyện gì.

Sau này, hiện tượng đã được giải thích:

đó chỉ là do khúc xạ ánh sáng của hơi nước, và còn có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy chiến trường cổ đại rực rỡ huy hoàng trên biển hoặc thấp thoáng hiện lên phía tận cùng đường chân trời trong sa mạc.

Có điều, các nhà khoa học đến tận bây giờ vẫn chưa giải thích nổi vì sao những ảo ảnh hình thành trên mặt nước hoặc trong tầng mây, mãi bao nhiêu năm sau này mới xuất hiện.

Đây là những điều Tư Mã Khôi nghe được lúc còn ở trong đội du kích cộng sản Miến Điện.

Bản thân anh cũng không biết nó là thật hay giả, sở dĩ giờ đây lôi ra nhắc lại vì thấy cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong núi Dã Nhân có vài phần tương tự với các hiện tượng ly kỳ xuất hiện nơi biển rộng cát dài kia.

Giải thích như vậy nghe có vẻ thông suốt lý lẽ hơn cả.

Thế mà Ngọc Phi Yến lại không công nhận suy đoán này.

Nếu nói đó chỉ là hiện tượng giả được hình thành do sương mù, vậy thì tại sao vào khoảnh khắc chiếc Rắn đen II đâm phải nó, lại giống như chạm vào bức từ trường cực mạnh, khiến toàn bộ động cơ, thiết bị đều ngừng hoạt động?

Ngoài ra, sau khi nó rơi xuống khe cốc, “vật thể sống” bị đèn halogen cực mạnh dẫn dụ ra khỏi đám sương mù là thứ gì?

Các thành viên đội thám hiểm Anh đã gặp phải nạn gì?

Và vì sao ngay cả thi thể cùng vết máu đều chẳng lưu lại chút nào tại hiện trường?

Tuyệt cũng có cùng cảm giác nghi hoặc sâu sắc như vậy.

Không kìm được, cô liền mở miệng hỏi Tư Mã Khôi:

“Vì sao người Anh lại hình dung vật xuất hiện trong sương mù dày đặc là vật thể sống?

” Tư Mã Khôi đáp:

“Cái từ này đúng là dễ hù dọa người thật.

Kỳ thực, nói trắng ra, đó chẳng qua là một “vật sống” nào đó tồn tại trong đám sương mù trào ra từ lòng đất hay sao?

” Tuyệt lắc đầu phủ nhận:

“Chỉ sợ chẳng hề đơn giản như thế, từ này phạm vi bao trùm quá rộng lớn, anh có thể nói cái cây ngọn cỏ là vật thể sống, thậm chí cũng có thể nói cả cõi trời đất này đều là một vật thể sống.

Chỉ đến khi chúng ta tận mắt chứng kiến vật xuất hiện trong sương mù ấy, thì mới có thể miêu tả chuẩn xác về nó.

Rốt cục trời đất mênh mang, những điều con người biết chỉ vô cùng hữu hạn, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, vật bị đèn halogen dẫn dụ ra khỏi sương mù, tuyệt đối nguy hiểm khác thường, chúng ta không gặp phải nó thì hơn”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ:

“Có thể làm rõ chân tướng vật ẩn nấp trong sương mù được, cũng chính là vấn đề then chốt giúp đội thám hiểm đào thoát khỏi núi Dã Nhân”.

Nhưng khi bị mọi người liên tiếp đặt câu hỏi như nã đạn pháo, thì anh cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, và trong lòng nghĩ:

“Tôi còn đang hoang mang đây này, sao các cô toàn nhằm tôi mà hỏi mãi thế?

”, nên đành phải lảng đi:

“Nhìn không hết là việc bình thường dưới trời, hiểu không thấu là chuyện bình thường trên đất.

Mọi việc diễn ra trước mắt quả thực vượt xa khỏi dự liệu, dường như chẳng có chút logic nào, nên nếu có là ai thì cũng chẳng thể giải đáp nổi.

Với tình hình này, chúng ta chỉ có thể cố gắng dùng tư duy đàn hồi để giải quyết thôi”.

Ngọc Phi Yến và Tuyệt đều ngơ ngác không hiểu, nên thắc mắc:

“Tư duy đàn hồi có nghĩa là gì vậy?

” Hải ngọng nói thay Tư Mã Khôi:

“Cái từ này đúng là dễ dọa người thật.

Kỳ thực nói trắng ra, hiện giờ cậu ta chẳng còn kế sách gì nữa cả, đành phải cố biến vấn đề phức tạp thành đơn giản, biến nó từ lạ thành bình thường.

Chúng ta cần gì phải tự làm khó bản thân thế chứ, chẳng may nghĩ quá hóa cuồng thì người chịu thiệt thòi rủi ro là chính mình chứ ai?

” Ngọc Phi Yến gật đầu đồng tình:

“Nói cũng có lý.

Giờ đây bên ngoài núi mưa to như tháo cống, nước mưa không ngừng thấm qua kẽ đất đá, lòng sơn động bị màn mưa che phủ, khiến sương mù dày đặc dưới khe cốc bị tiêu tan hoàn toàn.

Chúng ta nhờ thế mà tranh thủ được thiên thời, nếu bây giờ buông tay từ bỏ thì có khác gì mang công đổ bể.

Chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Anh, từng xác nhận thông tin thông qua liên lạc điện đàm không dây rằng:

đã hạ cánh vào màn sương mù, chứ không chìm xuống đầm lầy.

Ở dưới lòng đất có bao nhiêu là đầm lầy, nên nơi cho phép chiếc tiêm kích vận tải hạ cánh chỉ có mỗi dải đất ẩm ướt dài hẹp và sâu hút này thôi.

Nếu chúng ta tiếp tục lần mò về phía nam, thì biết đâu vẫn còn cơ hội tìm thấy hàng chứa trong khoang máy bay.

Trước đây Ngọc Phi Yến thường tự do hành sự theo ý mình, chẳng bao giờ cần giải thích gì với thuộc hạ, nhưng đối với mấy người mới hội Tư Mã Khôi (bọn họ quả thật có thể buông tay giãy cẳng giữa đường, mà mình chẳng làm gì được), nên cô đành xuống nước, thương lượng đầu cuối với họ, rồi dặn dò mọi người:

“Dụng binh hay ở chỗ thần tốc, bây giờ chúng ta không thể nấn ná thêm được nữa, phải nhanh chóng bắt tay hành động.

Bởi không chừng cơn bão nhiệt đới chẳng kéo dài thêm bao lâu, lỡ mà nó chuyển hướng giữa chừng hoặc đột ngột suy yếu thì sự việc sẽ phiền phức to, lúc đó đám sương mù chắc chắn sẽ xuất hiện trở lại.

Trước khi xuất phát, mọi người cố gắng mang theo những vật dụng cần thiết mà đội thám hiểm Anh để lại, đặc biệt là lương thực và vũ khí phòng thân, cùng với thiết bị chiếu sáng.

Nếu trên đường bất ngờ gặp sương mù, thì phải tắt ngay đèn pin cường quang và đèn chiếu halogen đi.

Trong tình huống bất đắc dĩ, cũng có thể đổi sang dùng đèn hàn quang hóa học không tỏa nhiệt”.

Nói xong, cô bắt đầu tìm kiếm vật dụng cần thiết trong hòm hàng của đội thám hiểm Anh.

Ngọc Phi Yến bất ngờ phát hiện một chiếc máy bộ đàm dạng đeo vai, bèn hỏi hội Tư Mã Khôi xem có ai biết sử dụng không?

Tuyệt xem xong bảo:

“Đây là máy điện đàm không dây chiến thuật quân dụng hiệu PRS25/77 mà.

Cái này do Mỹ sản xuất, tôi hiểu một chút về thông tin, chắc có thể sử dụng được nó, nhưng bây giờ trong huyệt động dưới lòng đất chẳng có kẻ sống sót nào khác ngoài chúng ta, thì cần nó để liên lạc với ai?

Ngọc Phi Yến nói:

“Sau khi lấy được hàng, chúng ta sẽ tìm cách rút lui khỏi khe núi, nhưng nếu ra được ngoài núi Dã Nhân mà không có ai tiếp ứng thì cũng chẳng nên cơm cháo gì được, mang theo nó chẳng nguy hại gì, ngược lại biết đâu sẽ có lúc phải dùng đến”.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bố trí mọi việc khá hợp lý, có bài có bản hẳn hoi, nếu là mình thì cũng chẳng thể nghĩ ra sách lược gì hay hơn, nên anh chỉ ngồi im lặng, chẳng nói thêm gì.

Những người còn lại cũng không có ý kiến gì khác, người nào người nấy cắm cúi bắt tay chuẩn bị, chỉ mỗi mình La Đại Hải cả đời chưa từng bị con gái chỉ huy bao giờ, tuy chẳng nói ra miệng, nhưng trong lòng khó tránh khỏi có chút khó chịu.

Anh vô tình phát hiện dưới đáy hòm có một hộp gỗ dài, mở ra nhìn thì thấy bên trong đựng một khẩu súng săn bốn nòng kiểu cũ bị tháo rời từng bộ phận, kèm theo hai loại thuốc súng đặc chế.

La Đại Hải trong chốc lát đã lắp ráp xong và thấy khẩu súng săn này đúng là to ngoại hạng, hơn nữa chất liệu thân súng rất được chú trọng, công nghệ vô cùng tinh xảo, bốn nòng súng xếp thành hình chữ thập, hai nòng trái phải lắp đạn ghém, hai nòng trên dưới là những đường xẻ rãnh dành cho loại họng súng cỡ lớn.

Anh từng nghe người bản địa nói, đây là kiểu súng mà dân quý tộc Anh trước đây thường sử dụng khi đi săn voi rừng hoặc tê giác ở Miến Điện hay Ấn Độ.

Lớp sừng bên ngoài của tê giác cứng đanh như thép nguội, đủ để phòng vệ trước nhiều loại đạn, chỉ mỗi khẩu “săn voi rừng” với đường kính họng súng ngoại cỡ này là nó không thể địch lại nổi mà thôi.

La Đại Hải hớn hở ra mặt, nói với Tư Mã Khôi:

“Khẩu súng này chẳng khác nào khẩu pháo, có nó bên mình, tớ cũng cảm thấy vững dạ hơn nhiều”.

Tư Mã Khôi nhắc nhở:

“Tiên sư Hải ngọng, cậu định mang nó đi bắn cả xe tăng đấy hả?

Tớ bảo cho mà biết, sử dụng súng săn nòng ngoại cỡ đó cũng đáng ngại ra phết, tuy rằng uy lực nó lớn thật, nhưng vì được sản xuất từ lâu rồi nên cấu tạo thiết kế có khá nhiều điểm lạc hậu, khuyết điểm vô số, rất dễ cướp cò, đặc biệt lực đẩy về sau mạnh đến kinh người, kẻ nào thể lực yếu ớt, khi nổ súng không khéo còn nảy ra sau ngã chổng vó đấy”.

La Đại Hải tự thấy mình cao to lực lưỡng, thể lực tráng kiện, tay vai chắc chắn nên chẳng coi mấy lời của Tư Mã Khôi vào đâu:

“Bọn khọm Anh đấy chẳng phải cũng chỉ uống nước máy, ăn mỳ trắng thôi sao?

Đâu phải hạng ba đầu sáu tay gì.

Bọn ấy mà đã sử dụng được thì chúng ta cũng có thể chơi cho sướng tay chứ”.

Nói xong, anh khoác băng đạn của khẩu săn voi lên người, sau đó quay sang dặn dò Karaweik:

“Ranh con nhà cậu nhớ bám đuôi cho sát vào nhé, nếu dám rớt lại phía sau, coi chừng anh bắn tuốt xác ra đấy”.

Karaweik cũng biết hoàn cảnh trước mắt vô cùng nguy hiểm, mặt mày hoảng hốt, miệng ngậm chặt chẳng dám ho he câu nào.

Sau khi mọi người đã nai nịt gọn gàng đâu vào đấy, họ mới lần lượt chui ra khỏi khoang Rắn đen II.

Người nào người nấy đều lăm lăm khẩu súng tự động trong tay, dùng đèn chiếu halogen mở đường, dò dẫm về phía cực nam của khe núi truy lùng mục tiêu.

Vùng nước đọng thấm qua kẽ nứt đất đá bị dòng khí lưu thông ở nơi cao trong khe núi cuốn ngược lên, đã tạo thành màn mưa bụi dày đặc giăng mắc mịt mùng khắp không gian, khiến tầm nhìn cũng bị ảnh hưởng, mọi vật trở nên mơ hồ không còn rõ ràng nữa.

Đáy khe núi toàn là những vùng đất ẩm ướt hoang phế, trong đó có một dải khá rộng, trải dài theo chiều dọc, tạo hình giống như con mãng xà khổng lồ.

Trên mặt nước xung quanh lại mọc đầy cỏ răng cưa thân dày lá rậm và lau sậy um tùm, chúng cao đến ngang thân người, khiến đầm lầy trông chi chít ngang dọc chẳng khác nào bàn cờ.

Tuyệt thấy kỳ lạ liền thắc mắc:

“Không gian dưới lòng đất rộng lớn, sâu hút, quanh năm bị sương mù dày đặc phong tỏa như thế này, ánh mặt trời chẳng bao giờ lọt xuống tới nơi thì lẽ ra không thể xảy ra hiện tượng quang hợp được mới phải, vậy mà sao hệ thực vật ở đầm lầy lại có thể mọc um tùm, phong phú dường này nhỉ?

” Tư Mã Khôi cũng đồng cảm:

“Điều bất thường nhất là ở đây quả thực quá rộng rãi, trống trải, mà độ sâu của huyệt động không dưới hai ngàn mét.

Tôi vốn dĩ cho rằng dưới lòng đất phải có vật gì đó ẩn nấp, nhưng trong này ngoại trừ sương mù ra, thì dường như chẳng có thứ gì”.

Trong lúc nói, dưới chùm sáng của đèn chiếu halogen, anh nhìn thấy ở mặt nước lân cận nổi lềnh bềnh mấy khúc trông như củi khô, trong lòng biết chắc, đó chính là cá sấu.

Bốn xung quanh hẻm núi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài.

Những loài động thực vật từ trên cao rơi xuống đáy động, chỉ có thể sinh sôi nảy nở ở môi trường gần như khép kín.

Bởi vậy, trong đầm lầy dưới lòng đất, xuất hiện các loài sinh vật bò sát như cá sấu hay mãng xà Miến Điện thì cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ.

Nhưng “vật thể sống” xuất hiện từ đám sương mù và tấn công chiếc Rắn đen II rốt cục là thứ gì?

Hình dạng của nó chắc chắn không thể nhỏ được, hơn nữa, nó có thể mượn sự trợ giúp của sương mù nhanh chóng di chuyển lên nơi cao, nên chắc chắn không thể là cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện.

Tư Mã Khôi chẳng lần tìm được đầu mối, nên mặc kệ không buồn nghĩ nhiều nữa.

Anh ngẩng đầu nhìn lên cao, trước đây anh chẳng có chút cảm xúc nào với cơn bão nhiệt đới Buddha, chỉ thấy khí hậu khắc nghiệt là mối hiểm họa chí mạng, nhưng giờ đây lại ngàn vạn lần mong rằng cơn giông tố xua tan mây mù này đừng có dừng lại.

Trong lúc bước đi với đầu óc trỗng rỗng, đột nhiên anh nhìn thấy phía trước có một con cá sấu khổng lồ dài mười mấy mét, nặng tới vài tấn, há miệng lộ ra hàm răng sắc nhọn lởm chởm.

Nó nằm vắt ngang đường, án binh bất động, bất ngờ bị kinh động bởi ánh sáng đèn halogen và tiếng bước chân, nhưng nó chẳng hề tấn công mà chỉ chậm chạp nhúc nhích thân hình nặng trịch phát ra mấy tiếng “ì oạp ì oạp” rồi cứ thế trườn sâu vào đám lau sậy, nghe âm thanh dường như đã bò đi khá xa.

Ngọc Phi Yến vội nhắc nhở mọi người, tuyệt đối không được đi gần chỗ cỏ lau sậy mọc, để tránh bị cá sấu mai phục ngoạm một ngoạm mà lôi xuống đầm lầy.

Lúc này gã Gấu trắng người Nga đột ngột dừng bước, làm một nhúm đất nơi con cá sấu khổng lồ vừa trườn qua làm vỡ cả tầng gỗ mục, dưới lớp rêu xanh và bùn đất dày lộ ra một khoảng đất rộng màu vàng như gan chó.

Gã liên tiếp móc mấy chỗ khác nữa trên mặt đất, tất cả đều giống như vậy, xem ra nó kéo dài một mạch xuống tận nơi sâu dưới đáy đầm.

Gã Gấu trắng người Nga dường như cảm thấy việc này rất đỗi bất thường, gương mặt vốn dĩ lạnh như băng của gã giờ đã phủ thêm một làn mây u ám.

Tuy rằng Tư Mã Khôi không hiểu gã khọm người Nga kia đang làm trò gì, nhưng nơi này cực kỳ nguy hiểm, đâu thể tự tiện dừng lại như thế, bèn hỏi:

“Bác chuyên gia nhát chết cho em hỏi, bác đang đào bom đấy à?

” Gã Gấu trắng người Nga nghe thấy tiếng nói liền ngẩng đầu lên, mặt lạnh tanh hướng thẳng về phía Tư Mã Khôi mà há to miệng, bên trong lộ ra mỗi cái cuống lưỡi, ngầm ra hiệu mình không thể nói, sau đó liền dùng dao găm vạch vài chữ trên mặt đất.

Mọi người chiếu đèn nhìn xuống, chỉ thấy bốn chữ cái tiếng Anh “MOHO”, ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ khó hiểu:

“Đây là tên người à?

” Ngọc Phi Yến biết một số kinh nghiệm mà chuyên gia bom mìn Gấu trắng này từng trải qua, nhìn thấy mấy chữ cái tiếng Anh trên mặt đất, thì liền hiểu ra điều mà gã muốn nói với mọi người, cô ta kinh ngạc hỏi lại:

“Có phải anh muốn nói chúng ta bị rơi vào trong ống kính viễn vọng rồi không?

” Hồi 2 :

Kính viễn vọng địa cầu Gã Gấu trắng người Nga dùng dao găm vạch bốn chữ “MOHO” trên mặt đất, chỉ có Ngọc Phi Yến hiểu rõ ý gã.

Đây là một sự thật khiến người ta không thể nào chấp nhận nổi:

đáy động dưới khe núi khổng lồ ở vùng núi Dã Nhân được cấu thành bởi vật chất thạch quyển (1), sáu kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm không rõ vì sao lại rơi vào “điểm gián đoạn Moho” ở giữa lớp vỏ địa chất và quyển Manti của trái đất.

Nếu phải giải thích sự việc này, thì phải bắt đầu nói từ thời kỳ đầu những năm 50, khi đó hai trận địa đối địch là hai cường quốc Liên Xô và Mỹ thường chịu sự chi phối bởi tư duy chiến tranh lạnh.

Họ đổ một lượng lớn tài sản vật chất vào cuộc chiến tranh không bao giờ chấm dứt, nghiên cứu khoa học quân sự cũng phát triển đột biến với tốc độ gần như là thần kỳ, hai bên đều vắt kiệt sức để khai phá mọi nguồn tài nguyên chiến lược.

Liên Xô khi đó có một dự án bí mật, đặt biệt danh là “Kính viễn vọng địa cầu”.

Vùng phía đông và phía nam trên lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn trống trải, uốn vòng theo dải đồi núi, hang động thiên nhiên và các mỏ khoáng nhiều vô kể.

Vì muốn nắm giữ được nguồn tài nguyên phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất, đồng thời chạm tay vào thế giới chưa từng được biết đến của nhân loại sớm hơn nước Mỹ, người Liên Xô đã dùng thiết bị máy móc khoan sâu hạng nặng, bí mật tiến hành đào bới ở độ sâu chưa bao giờ từng có trước đây, dưới một hang động khô trong bồn địa thiên nhiên.

Công trình này tiêu tốn khoảng thời gian gần hai mươi năm, huyệt động mà họ đào được nằm dựng đứng với độ sâu đạt tới mười ba ngàn mét, là huyệt động sâu nhất trên thế giới được biết đến.

Bởi vì việc này liên quan đến những cơ mật quân sự ở mức độ tối cao, cho nên dự án “Kính viễn vọng địa cầu” từ đầu chí cuối tuyệt đối được tiến hành trong trạng thái tuyệt mật, bên ngoài rất ít người biết đến nội tình sau bức màn.

Gấu trắng Ciglovski nghiên cứu tinh thông về chất nổ và khoan xuyên địa chất.

Vào thời kỳ cuối của công trình “Kính viễn vọng địa cầu”, gã từng tham gia vào dự án và có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều bí mật có liên quan.

Nhân loại đã chế tạo ra kính thiên văn, có thể dùng mắt thường để thăm dò mọi bí mật của không trung vũ trụ, nhưng mắt người lại không thể nhìn xuyên thấu lòng đất, cho nên họ mới đặt tên cho vực sâu nằm xuyên qua địa tầng trái đất là “Kính viễn vọng địa cầu” với mong muốn có thể thông qua nó để trực tiếp quan trắc vật chất dưới lòng đất.

Tại các độ sâu khác nhau trong lòng đất, kết cấu của vật chất cũng hoàn toàn khác nhau, không phải tất cả từ trên xuống dưới đều là bùn cát đất đá lẫn lộn.

Nói một cách khái quát, đại thể có thể phân chia trái đất thành ba tầng khu vực, phần ngoài cùng gọi là lớp vỏ địa chất, phần sâu hơn là tầng quyển manti trung gian, hay còn gọi là lớp phủ, bên trong lớp phủ là phần lõi.

Phía ngoài và phía trong tầng quyển manti, chỗ ranh giới của loại các vật chất khác nhau gọi là điểm gián đoạn, chỗ giáp ranh giữa lớp vỏ và lớp phủ được gọi là điểm gián đoạn Moho, chỗ giáp ranh giữa lớp phủ và lớp lõi được gọi là điểm gián đoạn Gutenberg.

Năm đó, người Liên Xô đã đào tới độ sâu hơn mười ngàn mét dưới lòng đất, lấy được mẫu vật từ tầng quyển manti bên trong “điểm gián đoạn Moho”, phát hiện dưới lòng đất hàm chứa loại vật chất có tính phóng xạ rất lớn, khiến vật chất tầng thạch quyển hình thành giống như sáp parafin, nó không phải đá cũng không phải cát, có lẽ bên trong chứa vi sinh vật, nên mới hiện lên những vết vằn màu gan chó hiếm gặp ấy, hoàn toàn không giống với cấu tạo địa chất thường thấy trong các hang động khác ở núi Dã Nhân.

Gấu trắng từng nhìn thấy mẫu vật này ở Liên Xô, đồng thời hiểu rằng vạch ranh giới loại vật chất dưới lòng đất này mang tính toàn cầu, nhưng tùy vào khu vực bề mặt khác nhau thì độ sâu của điểm gián đoạn Moho cũng thay đổi; nếu ở núi Dã Nhân Miến Điện, chí ít phải nằm sâu dưới lòng đất khoảng mấy chục nghìn mét thì mới có thể xuất hiện loại vật chất đặc thù này.

Ngọc Phi Yến ngước đầu lên nhìn khe nứt của miệng vực ở mãi trên cao qua lớp mưa bụi, trong lòng trào lên cảm giác khác lạ khó nói thành lời.

Lúc này, bên ngoài núi mưa to như trút, sấm sét giao hòa, không thể dùng mắt thường phán đoán dựa theo tia sáng của ánh chớp, mà chỉ có thể nhìn con số hiển thị vị trí so với mực nước biển trên đồng hồ đeo tay, khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa đáy động và miệng vực áng chừng khoảng hai nghìn mét.

Hơn nữa, đỉnh khe núi, bản thân lại nằm trong núi Dã Nhân, nơi có vị trí tương đối cao so với mực nước biển, trừ đi độ cao của ngọn núi, thì từ mặt đất xuống dưới này không thể vượt quá một nghìn mét.

Độ sâu ấy đương nhiên không thể gọi là nông, nhưng sự biến hóa của vật chất địa tầng cho thấy rõ ràng mọi người đang ở độ sâu mười nghìn mét dưới lòng đất, chứ không phải một nghìn.

Việc đó cũng có nghĩa là độ sâu mà bản thân tự cảm giác thấy còn kém độ sâu thực tế một số không.

Trong lòng khe núi thăm thẳm như vực sâu vạn trượng này, dường như mọi logic và kiến thức thông thường đều mất hết ý nghĩa, khiến người ta hoàn toàn khó lòng phán đoán được rốt cục bản thân đang gặp phải tình huống gì.

Ngọc Phi Yến trong lòng hỗn độn một mớ, cô ta tóm tắt nội dung tình hình mà gã Gấu trắng phát hiện với những người còn lại.

Hội Tư Mã Khôi trình độ văn hóa có hạn, nên chẳng thể nào hiểu được “điểm gián đoạn Moho” và “kính viễn vọng địa cầu” rốt cục là chỉ thứ gì?

Nếu như diễn đạt nôm na có khi họ lại hiểu được chút ít.

Hải ngọng tặc lưỡi:

“Bây giờ dù sao chân đã chạm tới đáy rồi, còn lo nó sâu bao nhiêu làm chi?

Tôi thực sự chả hiểu chuyện này có gì đáng để quan tâm.

Rơi xuống từ một ngàn mét cũng chết, mà rơi xuống từ mười ngàn mét chẳng phải cũng chết sao?

Kiểu gì thì vẫn một kết cục thịt nát xương tan vung vãi tứ phía, dù sao có thành bộ dạng gì thì bản thân cũng chả nhìn thấy; bởi vậy, căn bản chẳng cần suy nghĩ về độ nông sâu của huyệt động dưới lòng đất này làm gì cho mệt óc”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:

“Chắc là vẫn hơi khác một chút đấy, rơi từ hai ngàn mét thì chỉ cần gào lên một tiếng thảm thiết, chẳng kịp đau buồn gì đã ra đi rồi.

Nhưng nếu rơi từ nơi cao mười ngàn mét, cứ mặc thân thể rơi tự do xuống dưới, trước tiên cậu phải gào mất vài tiếng, sau đó móc một điếu thuốc ra hút, rồi lôi giấy bút ra viết di chúc, dặn dò hậu sự xong đâu đấy, lại hồi tưởng quãng đời chinh chiến trên lưng ngựa ở cánh rừng rậm nhiệt đới này hết mấy lượt, cúi đầu nhìn xuống, thì ô hay, vẫn còn nửa đoạn đường nữa mới rơi được tới đáy kia”.

Ngọc Phi Yến thấy hai người bọn họ căn bản chẳng hiểu chuyện gì, bèn nói:

“Bất kể do địa chất trong lòng núi Dã Nhân biến dị hay do cảm giác về không gian của bản thân bị nhiễu loạn, đều là những vấn đề sau này mới cần để tâm đến.

Giờ phải cân nhắc việc nào quan trọng việc không.

Hiện giờ quan trọng nhất là đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích”.

Cô thấy đầm lầy dưới lòng đất mênh mang vô bờ bến, lớp phủ thực vật và bóng tối lại cản trở công cuộc tìm kiếm, nên với tình hình này, muốn tìm thấy mục tiêu, gần như là mò kim đáy bể, thật khiến người ta chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Tất cả mọi chiêu phép đào mồ quật mả trong núi trước đây đều chẳng có tác dụng gì ở nơi này, đầu óc cô trống rỗng không nghĩ ra nổi một kế sách nào.

Tư Mã Khôi theo đoàn thám hiểm vào núi sâu, thấy hội trộm mộ Ngọc Phi Yến đúng là có chút bản lĩnh, nhưng kinh nghiệm và kỹ thuật truyền thống của bọn họ, dường như hoàn toàn không thích hợp trong rừng rậm nhiệt đới Miến Điện.

Ngay từ đầu, Khương sư phụ quyết định tiến vào thâm cốc theo con đường “tượng môn” là đã phạm vào điều đại kị.

Tư Mã Khôi lăn lộn trong đội du kích cộng sản Miến Điện đã nhiều năm, ngoài việc phóng hỏa giết người, thì kinh nghiệm về những phương diện như tác chiến trong rừng rậm, mưu cầu sinh tồn ở nơi hoang dã, tìm kiếm cứu viện hay phân biệt phương hướng v.

v… anh đều nắm rõ như lòng bàn tay.

Anh quay sang nói với Ngọc Phi Yến:

“Địa hình vùng núi Miến Điện cực kỳ phức tạp, muốn đảm bảo an toàn, thì phải cố gắng thực hiện theo phương châm – đi chỗ cao, chớ đi chỗ thấp, đi đường rộng, chớ đi đường hẹp, đi dọc chớ đi ngang, băng rừng chớ lội cỏ”.

Thế mà bây giờ đội thám hiểm ở đáy khe núi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trong bốn điều cấm kỵ, họ đã phạm phải ba.

Thứ nhất, đi xuyên vào trong huyệt động, tức là đi nơi thấp, thứ hai sự hạn chế của địa hình và môi trường, khiến tầm nhìn trở nên vô cùng hạn hẹp, tức là đi nơi hẹp, thứ ba dưới lòng đất toàn là đầm lầy, cỏ răng cưa và lau sậy mọc um tùm rậm rạp, rất dễ bị cá sấu lén tấn công.

Có thể nói, cảnh ngộ họ gặp phải bây giờ hiểm ác đến cực điểm.

Nghe Tư Mã Khôi nhắc đến cá sấu mai phục dưới đầm lầy, mặt mày ai nấy đều tự dưng biến sắc.

Nhớ năm đó ở Miến Điện, đội quân hơn hai ngàn tên, được vũ trang đầy đủ đến tận răng lạc bước vào đầm lầy, do binh sỹ bị thương quá nhiều, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc, kết quả là dẫn dụ vô số cá sấu trườn ra khỏi đầm.

Chưa đầy nửa tiếng sau, hơn hai ngàn con người gần như đều trở thành miếng mồi sống nuôi cá sấu.

Căn cứ vào tập tính của loài này là, sau khi phát hiện ra con mồi, nó không lập tức tấn công ngay, mà trước tiên sẽ quan sát kỹ một hồi, nhưng khi có con nhào lên trước, thì đồng loại sẽ thi nhau phi lên tranh mồi.

Lúc đó kết cục như thế nào, đương nhiên chẳng cần nói thì ai cũng tự rõ.

Tư Mã Khôi lại nói:

“Trước mắt chỉ biết chiếc máy bay vận tải đại khái hạ cánh ở cực nam khe núi, nhưng huyệt động dưới lòng đất thênh thang thâm u như thế này, dựa vào mấy khẩu súng của chúng ta, mạo hiểm đội mưa dò dẫm đi tìm trong đầm lầy, thì biết đến bao giờ mới thấy?

” Ngọc Phi Yến bị Tư Mã Khôi vặn lại thì máu quyết tâm đã nguội đi quá nửa, lặng lẽ hỏi:

“Theo như anh nói, chẳng lẽ chúng ta không còn cơ hội nào tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó sao?

” Tư Mã Khôi đáp:

“Hoàn cảnh càng nghiệt ngã thì cơ hội càng nhiều hơn.

Lúc đầu tôi cũng chẳng có cách gì hết, có điều từ khi đi vào đầm lầy, tôi lại đột nhiên nghĩ ra một cách, không chừng lại dùng được”.

Chủ nghĩa thực dân Anh thống trị Miến Điện gần trăm năm, trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, quân đội Anh đánh nhau với quân Nhật ở Miến Điện, quy mô phải tới hơn một triệu người.

Đương nhiên, phần lớn lính tráng lúc đó đều đến từ những nước thuộc địa, tuy nói rằng họ chiến đấu vì nước Anh vĩ đại, nhưng rất nhiều người cả đời chưa hề đặt nửa bước chân lên lãnh thổ nước Anh, thậm chí cũng chẳng rõ nước Anh nằm ở đâu trên bản đồ.

Giữa các nước thuộc địa rải rác khắp thế giới, người Anh coi trọng nhất Ấn Độ đất rộng người đông, trong khi Miến Điện lại là bức bình phong chiến lược tự nhiên của Ấn Độ.

Năm đó, họ xây dựng Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn Độ.

Bởi thế người Anh đặc biệt chú ý phát triển Miến Điện trong suốt nhiều năm, biến nó trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Đông Nam Á.

Thời kỳ này, chế độ thống trị thực dân đã có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với Miến Điện.

Cho đến ngày nay, lãnh thổ Miến Điện còn rất nhiều đường bộ, đường sắt, sân bay do người Anh xây dựng, đặc biệt có vô số vũ khí chiến tranh nằm rải rác khắp nơi trên đất nước, bao gồm cả pháo hạng nặng, xe tăng, máy bay chiến đấu.

Tư Mã Khôi cho dù không thông thạo tình hình nước Anh lắm, nhưng anh tham gia quân đội nhân dân cộng sản Miến Điện đã bao nhiêu năm, nên nắm rất rõ những loại vũ khí do người Anh chế tạo.

Chiếc máy bay tiêm kích, anh cũng từng nhìn thấy không ít lần.

Trước đây, cùng đồng đội hành quân trong núi sâu rừng thẳm, đôi lúc anh cũng gặp vài xác máy bay ném bom bị rơi xuống núi, và cả những quả bom hạng nặng ném xuống nhưng không phát nổ.

Binh lính bản địa của quân đội nhân dân cộng sản nhìn thấy vỏ ngoài chiếc máy bay, liền dỡ nó ra mang về, những phần tương đối hoàn chỉnh họ còn có thể mang ra chợ bán lấy tiền, hay đổi lấy vật dụng có giá trị tương ứng.

Bởi vì loại gỗ ván ép sử dụng cho máy bay tương đối nhẹ, nguyên liệu hoàn toàn dùng gỗ Balsa, một loại gỗ khá giống với họ gỗ hông (Paulownia) ở châu Á.

Loại gỗ này không nứt không cong, dễ gia công, khả năng chịu chấn động tốt, không dễ bị biến dạng và không dễ cháy, nên nó rất thích hợp để làm đồ gia dụng hoặc sửa chữa nhà cửa.

Nếu nhìn thấy trong nhà người bản địa, có những đồ gia dụng đơn giản do mấy tấm gỗ ván ép cũ kỹ lắp ghép thành, thì chẳng cần hỏi cũng biết, nguyên liệu chắc chắn được lấy từ chiếc tiêm kích của quân đội Hoàng gia Anh.

Những điều này đều là điều ai cũng biết, bình thường đến mức không thể bình thường hơn nữa, làm gì có chỗ nào đặc biệt?

Nhưng Tư Mã Khôi từng được truyền thụ Kim điển, hiểu được cái lý “tướng vật”, đó là căn bản khởi nghiệp của tổ tiên, giờ đây trên thế giới, ngoại trừ anh ra, thì chẳng còn người thứ hai có được bản lĩnh này nữa.

Vậy thế nào là “tướng vật”?

Thời xưa thường có các thuật sĩ xem tướng số cho người sống, dựa vào ngũ quan diện mạo và khí sắc để phán đoán cát hung phúc họa cho họ, ngoài ra còn có thầy địa lý xem “tướng đất”, nghĩa là thông qua bố cục địa hình phong thủy để phán đoán sông núi địa lý.

Bên cạnh đó còn có rất nhiều hạng mục tạp nham như tướng mèo, tướng bò, tướng ngựa v.

v… Thế nhưng tất cả quy nạp lại, cổ pháp đó toàn bộ đều thuộc về đạo “tướng vật”.

Thời xưa, đạo chỉ “tướng vật” nhìn tên mà biết nghĩa, “tướng” tức là chỉ vật có thể dùng mắt nhìn thấy, còn về hàm ý của “vật” bao trùm phạm vi vô cùng rộng lớn, vạn vật trong cõi trời đất, bất kể sống chết gì, đều được coi là “vật”.

Là vật tất phải có thuộc tính, chẳng có cái gì không hợp lẽ âm dương sinh khắc.

Người xưa giải thích về nguyên lý “tướng vật” như sau:

“Thiên địa vốn vô vi, thuộc tính vạn vật vốn dĩ đã có, muốn miêu tả vạn vật, hãy xem tạo hóa nhỏ bé của nó, mà phân biệt thời số vận hạn, sẽ linh ứng như thần phán”.

Lời này hàm ý quá sâu xa, nếu nói đơn giản, rõ ràng hơn một chút, thì ta có thể lấy một ví dụ tương đối trực quan để hình dung:

“Bỏ một giọt nước mắt vào ống rồi mang vào phòng thí nghiệm, từ đó ta rất dễ phân tích mọi thành phần hóa học, để biết giọt nước mắt do những phân tử nào cấu thành.

Nhưng lý do gì khiến giọt nước mắt có thể trào ra khỏi cơ thể?

Rốt cục do đau buồn hay do mừng vui?

Cho dù áp dụng các phương pháp khoa học tiên tiến hơn nữa, thì cũng không thể phân biệt được nguyên nhân phát sinh ra nó.

Cái này nghĩa là biết hình mà không biết tính.

Nhìn rõ, sờ thấy bao giờ cũng dễ phân biệt, còn những khí chất vô hình vô ảnh thì rất khó phán đoán, chỉ có thể thông qua cổ pháp tướng vật để quan sát phân tích, điều ấy gọi là:

nhìn hình, biết tính

- biết tính mới có thể biết tường tận nguyên lý và nhờ đó cuối cùng sẽ tìm thấy con đường giải quyết.

Tuy Tư Mã Khôi lĩnh hội bản lĩnh gia truyền này không sâu lắm, chẳng qua thủ thân được một chút lông da bên ngoài, tới được trình độ nông cạn “nhìn hình, biết tính”.

Có điều, khi ở gần đầm lầy dưới lòng đất, anh đã tiến hành phân tích tỉ mỉ mọi vật xung quanh, không khỏi giật mình trước một số điều mình đã thấy.

Anh biết chất liệu chế tạo nên chiếc máy bay tiêm kích vận tải, còn có một đặc tính:

nếu gỗ ván ép Balsa bị ngâm lâu trong môi trường ẩm ướt, không có ánh sáng mặt trời, thời gian càng lâu thì tính gỗ càng nặng nề âm khí.

Nếu chiếc máy bay vận tải hạ cánh xuống khe cốc sâu mấy chục năm, thì cũng tức là trong rừng rậm dưới lòng đất đang vùi chôn một thân gỗ âm khí cực mạnh.

Cỏ răng cưa và lau sậy trong đầm lầy cũng đều hợp theo lẽ chuyển biến của tạo hóa.

Nếu ở môi trường bình thường, cùng một đám lau sậy, nhưng khóm ở mặt bắc sẽ um tùm rậm rạp vì ở gần mặt trời hơn, còn khóm ở mặt nam sẽ khô cằn hơn một chút.

Nhưng ở dưới khe núi quanh năm bị mây mù che phủ không chút ánh sáng này, quy luật sinh trưởng của lớp phủ thực vật chắc là sẽ không phân biệt nam bắc.

Thế nhưng, chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm nay, chắc chắn đang tỏa âm khí nặng nề ở nơi nó nằm, nói cách khác, nơi nó nằm gọi là “cực âm”, bởi vậy đám lau sậy mọc gần vị trí chiếc máy bay sẽ cằn cỗi hơn.

Nếu tiến hành quan sát phân tích tỉ mỉ, thì sẽ không khó xác định phương hướng chính xác của nó.

Nếu Tư Mã Khôi không cùng đội du kích cộng sản Miến Điện lăn lộn bao nhiêu năm nơi rừng già núi sâu, và không hiểu được đôi chút về bí thuật tướng vật, thì cũng khó có thể nắm vững được kinh nghiệm đặc thù này.

Trong đầu anh nảy ra một kế sách, chỉ sợ để lâu sinh biến, nên liền đi trước dẫn đường và nói với hội Ngọc Phi Yến:

“Mọi người chỉ cần đi theo tôi, trong ngày hôm nay chắc chắn sẽ có kết quả”, rồi lại dặn dò:

“Đi lại trong đầm lầy, mọi người hãy đi theo hàng dọc, khoảng cách giữa người trước và người sau không được vượt quá một cánh tay, đồng thời phải bước nhẹ, đứng chắc, nai nịt các vật dụng tùy thân như súng, ba lô, bình nước đều phải gọn gàng, ép sát vào người, những vật cao quá đầu, rộng quá vai đều vứt hết, như vậy khi xảy ra tình huống đột biến như bị ngã hay thụt chân, mới có thể đảm bảo những vật dụng mang theo không rơi vãi, mất mát, cũng có thể tránh va chạm vào bụi cỏ phát ra tiếng động lớn dẫn dụ bọn cá sấu đến, làm như vậy sẽ giúp hành động được nhanh chóng hơn”.

Tư Mã Khôi nói xong, lập tức dùng dao săn phạt một đoạn cành khô, cắm xuống bùn dưới đầm để dò đường.

Anh lần mò theo khu vực tỏa ra âm khí nặng nề tối tăm nhất trong đầm lầy, chậm chạp tiến từng bước.

Những người còn lại bám sát phía sau, xuyên qua bụi cỏ răng cưa um tùm và bóng tối mênh mang, rồi chẳng biết họ đã đi được bao nhiêu cây số thì nhìn thấy ở nơi sâu phía bãi cỏ hoang, đột nhiên có một vật gì rất to lớn nằm chắn ngang.

Nhờ vào chùm sáng phát ra bởi đèn chiếu halogen, họ nhìn kỹ vào vật thể ấy, thấy thấp thoáng như hình của chiếc máy bay tiêm kích vận tải.

Nó nằm bất động chìm sâu vào giấc ngủ im lìm ở nơi đây liền một hơi đã hai mươi mấy năm, nửa thân dưới của nó đã bị lún dưới đầm lầy, gần đó nhấp nhô lồi lõm đầy những vật trông như sáp nến, bao phủ kín mít chẳng chừa chỗ nào, đồng thời trên bề mặt đất ẩm ướt còn lộ ra rất nhiều măng đá (2), kết dính lằng nhằng bởi chất keo giống như thảm rêu, nhìn vào chẳng khác nào loại dầu nến, người Miến Điện gọi nó là “nến nước”, kỳ thực đó là sào huyệt một loài bướm đêm có tên gọi là “ngài mắt kính”.

Mọi người vừa đến gần, thì lũ côn trùng bị kinh động hoảng hốt bay tứ tán khắp nơi.

Dưới làn mưa bụi mịt mùng, chúng túa ra từ lùm lau sậy gần đó, không ít con bị nước mưa đánh ướt sũng, nhìn thấy chùm sáng lay động trong bóng tối, liền ngờ nghệch đâm đầu bổ nhào vào đèn chiếu halogen, trên cánh ngài có những vệt vằn màu trắng, trong suốt như mắt kính, chúng đều là loại sinh vật sinh sôi nảy nở ở những nơi ẩm ướt quanh năm.

“Nến nước” là loại hợp chất do bụi phấn trên cơ thể bướm đêm ngưng tụ đông đặc lại mà thành, và cho dù dưới làn mưa sương tăm tối, nó vẫn có thể tỏa ra thứ ánh sáng lành lạnh, nhưng trong môi trường đặc biệt này, rất khó có thể nhìn thấy từ phía xa, mà phải lại gần ở khoảng cách mấy chục mét mới có thể phát hiện được.

Chiếc máy bay tiêm kích ngủ yên dưới lòng đất đã bao nhiêu năm, chất gỗ Balsa tuy rằng đã qua gia công, nhưng do ngâm lâu dưới lòng đất quá mức nóng ẩm nên rất dễ bị mục nát; giờ đây xung quanh nó đã sớm trở thành sào huyệt tụ tập của loài bướm đêm.

Hội Tư Mã Khôi mặc kệ chẳng buồn giơ tay xua bọn bướm đêm đang bám đầy người, đội mưa xách đèn đi tới chiếc máy bay.

Tuy rằng toàn thân nó phủ đầy rêu xanh và rễ cây, nhưng dùng giáo mỏ vịt xới tung lớp phủ thực vật bên ngoài, thì đã lộ ra cửa khoang máy bay bị đóng kín mít.

Họ kiểm tra mọi dấu hiệu đặc trưng, thấy đây chính là chiếc máy bay tiêm kích mà đội thám hiểm cần tìm.

Đến phút giây này, tim ai nấy đều bất giác đập loạn xạ cả lên.

Ngọc Phi Yến giơ tay sờ vào thân máy bay ướt lạnh, trơn nhầy, xem ra bề mặt cũng kết đầy tổ ngài.

Tuy rằng việc này hoàn toàn nằm trong dự liệu, nhưng cô dường như càng ngày lại càng lún sâu hơn vào bể nghi hoặc:

“Chiếc máy bay tiêm kích thực sự, quả đúng đã rơi xuống khe núi hai mươi mấy năm.

Vậy thì lẽ nào vật mà chiếc Rắn đen II đâm phải trong đám sương mù lại là một bóng ma?

Cô nóng lòng muốn xem hàng trong khoang còn nguyên lành không, bèn giục Hải ngọng đi cậy cánh máy bay.

Hải ngọng đành trao khẩu súng săn cho Tư Mã Khôi, cầm lấy cây giáo mỏ vịt chọc vào khe cánh máy bay.

Cùng với âm thanh cọ sát nghe trầm đục rồi lại kèn kẹt do han gỉ, cánh cửa máy bay bị anh nậy ra một đường rãnh to, luồng khí ẩm mốc lập tức xộc thẳng vào mũi, chùm sáng của đèn halogen như bị bóng tối nuốt chửng, chẳng thể nhìn thấy tình hình bên trong khoang.

Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng mờ mịt, bèn ngăn Hải ngọng lại, không để bạn tùy tiện trèo vào, rồi tự mình lẹ làng tiến sát, anh muốn cố gắng quan sát rõ tình hình trong khoang trước đã.

Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đèn, ghé mắt nhòm, chỉ thấy trong khoang tối mịt, im lìm, chẳng thể nhìn rõ nơi xa, còn nơi gần cũng không thấy điều gì bất thường.

Bỗng nhiên anh nhìn thấy một vật đang bò phía trước, nhưng ánh sáng của ngọn đèn trong tay ảm đạm như sắp tắt, nên căn bản chẳng thể nhìn thấy rõ nó là cái gì.

Tư Mã Khôi trong lòng lờ mờ cảm thấy không ổn, liền định thu người lùi bước, ai ngờ từ trong khoang máy bay ào ra một vật đen ngòm, anh chưa kịp tránh thì toàn thân đã bị nó khóa chặt ngắc, chỉ cảm thấy luồng khí lạnh xuyên thấu tận xương, đầu óc tối tăm, cảm giác ngột ngạt tựa ngộp thở, trong khi cả người dường như bị một sức mạnh khủng khiếp nào đó đè nén bóp nghẹt, rồi bất giác kéo sâu vào trong khoang.

Anh vội vã giơ tay ngăn lại, không ngờ tay vừa đẩy ra, thì chạm vào một khoảng không hư vô trống rỗng, chỉ có sương mù dày đặc bủa vây trước mắt mà thôi.

****** (1) Thạch quyển:

Là lớp vỏ cứng ngoài cùng của các hành tinh có đất đá, bao gồm lớp vở và tầng trên cùng của quyển Manti.

(2) Măng đá:

là một dạng trầm tích hang động phát triển từ nền hang động đá vôi lên, có hình măng, hình nón thấp nhỏ.

Hồi 3 :

Hàng nguy hiểm Tư Mã Khôi hoảng hốt phát hiện trước mắt là một dải hư không, vật đang bóp nghẹt cơ thể mình dường như chỉ có đám sương khí hữu hình vô chất này thôi.

Ngực anh đau tức, thân thể không thể cử động, miệng cũng không thể thốt thành lời, bất giác bị kéo tụt vào trong quầng sương.

Lúc đó anh lại cũng đang đứng quay lưng về phía mấy người cùng hội ở ngoài máy bay, khiến tầm nhìn của mọi người bị cản trở, nên chẳng ai có thể phát hiện cảnh ngộ bất ngờ mà anh gặp phải.

Nửa thân trên của Tư Mã Khôi bị kéo về trước, đầu ngón chân vẫn cố bám trụ trên mặt đất nhưng chẳng thể gồng mình lên được, cánh tay trái cầm đèn cũng bị sương mù khống chế, khí lạnh xuyên thấu đến tận xương tủy, mắt nhìn tính mạng ngàn cân treo sợi tóc.

Anh thầm oán thán trong lòng và giữa lúc tình thế cấp bách, tay phải anh gạt nòng khẩu “súng săn voi” lên.

Khẩu súng săn nòng cực đại nổ “đoàng” một tiếng thật lớn, khiến toàn thân Tư Mã Khôi bị bắn ngược về phía sau, đập mông một nhát rất mạnh xuống bùn.

Trên nóc chiếc máy bay tiêm kích cũng bị đạn xuyên thủng một lỗ lớn, gió hoang mưa lạnh liền ùa vào, phút chốc màn sương mù mịt mùng trong khoang bị thổi tan tác.

Hội Hải ngọng nghe thấy tiếng súng mới biết xảy ra biến cố, cả bọn vội vàng chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy, chỉ thấy trên người anh toàn là vết thâm tím, mặt trắng bệch như sáp nến.

La Đại Hải và Tuyệt hiểu rất rõ tính cách can trường của Tư Mã Khôi.

Khí phách gan dạ, cái thứ này có thể chia ra làm nhiều loại:

một vài kẻ có gan cợt nhả phụ nữ, nhưng không có gan sống mái một phen với kẻ thù, một số người khác không sợ tuốt thịt lột da, nhưng lại sợ bị bác sĩ tiêm, có kẻ dám ăn trộm ví tiền nhưng không dám chặn đường cướp của.

Đương nhiên, cũng có người văn võ song toàn, như Tư Mã Khôi chẳng hạn, bẩm sinh đã là một kẻ liều mạng, trước giờ luôn điềm tĩnh ung dung trước mọi hoàn cảnh, lâm nguy cũng chẳng mảy may run sợ.

Nhưng lúc này, nhìn thần sắc cũng thấy rõ là anh vừa bị chấn động không nhỏ; vậy rốt cục Tư Mã Khôi đã nhìn thấy vật gì mà khiến anh sợ tới mức như vậy?

Mãi một lúc sau, Tư Mã Khôi mới định thần lại được, sờ những vết bầm trên cơ thể, vẫn thấy đau đến tận xương tủy.

Anh cũng không thể xác định rốt cục mình đã gặp phải cái gì giữa khoảnh khắc đó, chỉ có thể hình dung mọi cảm giác sợ hãi dường như đều cộng gộp cả vào lúc ấy, nên lòng thầm nghĩ “Chẳng lẽ trong đám sương mù kia lại có ma?

”; nhưng suy ngẫm một lát, lại thấy không giống, có lẽ đội thám hiểm Anh trên chiếc Rắn đen II cũng gặp phải cảnh ngộ giống mình, cuối cùng ngay cả một cái xác cũng chẳng thấy đâu, tất cả đều bị đám sương mù dưới lòng đất núi Dã Nhân phân hủy hòa tan, hay là bị lôi đến nơi nào khác?

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi:

“Lúc lăn lộn trên chiến trường năm đó, tình hình chiến sự trên không thảm khốc ác liệt như thế, xác người chết lấp đầy cả rãnh núi, hai đứa bọn mình mò mẫm giữa đêm tối trong rừng sâu, tìm đạn trên thân thể người chết, lúc đó tớ cũng chẳng thấy cậu nhíu mày một cái, thế mà bây giờ sao lại thế hả?

” Tư Mã Khôi lắc đầu, trả cho Hải ngọng khẩu súng săn, khi nãy chẳng hiểu ma sai quỷ khiến thế nào, tự nhiên anh lại cầm món đồ chơi này trong tay, nếu không có nó thì kết cục thật chẳng dám nghĩ tới.

Tuy rằng Tư Mã Khôi đã sớm mặc kệ sự sống chết, nhưng anh vẫn không thể giải thích rõ ràng rốt cục khi nãy mình sợ điều gì.

Có lẽ cảm giác này gần giống với cảm giác lần đầu tiên nghe người ta kể chuyện “Tây Du Ký”, tuy nhiều lần ăn thịt lợn, cũng nhìn thấy lợn chạy tới chạy lui, nhưng không thể nào tưởng tượng nổi làm sao lợn lại mặc được quần áo, nói được tiếng người, mà lúc đó cứ tin là thật, nên tự nhiên cũng thấy khiếp đảm.

Có lẽ đối với những hiện tượng chưa biết, vượt ra ngoài phạm trù nhận thức của mình, con người chắc hẳn đều ôm tâm lý hoảng sợ hình thành từ phút đầu tiên, và trước sau không thể khắc phục được nhược điểm này.

Tư Mã Khôi không muốn thuật lại chuyện vừa gặp cho mọi người nghe, để tránh nảy sinh áp lực tinh thần và hoảng sợ không cần thiết, nên chỉ nói sương mù ở huyệt động này không ổn lắm, chiếc máy bay tiêm kích lại bị niêm phong nhiều năm dưới lòng đất, sương khí bên trong chưa chịu ảnh hưởng bởi mưa gió, nhưng bây giờ trên nóc đã bị xuyên thủng một lỗ hổng lớn, sương khí trong khoang sẽ nhanh chóng tan hết, giờ chắc đã an toàn rồi, mọi người mau vào lấy “hàng”, rồi nhanh chóng chuồn khỏi nơi quỷ quái chết tiệt này cho xong.

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi không hề có biểu hiện gì khác thường, thì tạm yên tâm trở lại.

Rút kinh nghiệm lần trước, cô xách khẩu súng xung phong Uzi quét một lượt đạn vào khoang, khiến nóc máy bay bị thủng lỗ chỗ, nước mưa lại càng tràn xuống nhiều hơn, quả nhiên không thấy xuất hiện điều gì bất thường nữa; thế là cô bảo Tuyệt và Karaweik cùng mình đi vào tìm “hàng”, còn Tư Mã Khôi, La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga ở lại bên ngoài cảnh giới.

Tư Mã Khôi cũng rất muốn biết vị khách hàng thuê đội thám hiểm rốt cục muốn tìm kiếm “hàng” gì.

Người và máy bay mất tích trong rừng rậm Miến Điện suốt thời kỳ chiến tranh nhiều không kể xiết, vậy sao họ lại quan tâm duy nhất đến chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh?

Chỉ riêng những gì Tư Mã Khôi tận mắt chứng kiến:

để truy lùng chiếc máy bay giữa núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, họ phải trả giá bằng mấy chục sinh mạng, thì không biết trong những năm gần đây đã có bao nhiêu kẻ phải thiệt thân vì nó nữa.

Thường nói thế gian có báu vật vô giá, nhưng đó chẳng qua chỉ là một cách hình dung mà thôi, phải trả một cái giá quá đắt như vậy, chỉ để kiếm tìm một vài món đồ cổ moi ra từ lòng đất Miến Điện thôi sao?

Tư Mã Khôi không thể lý giải :

vị khách sai khiến tất cả đứng đằng sau tấm màn này có tâm địa gì, cũng chẳng rõ “hàng” trong khoang máy bay có điểm gì đặc biệt, mà khiến người ta huy động nhiều sức người sức của như vậy.

Anh chỉ cảm thấy:

“Trong con mắt của những kẻ lắm tiền nhiều của kia, mạng sống con người chẳng qua chỉ là thứ rơm rác, đối với họ, nó chẳng có giá trị gì”.

Giữa lúc ấy, đột nhiên lại nghe được tiếng “soạt soạt” từ trong bụi cỏ răng cưa dưới đầm sâu vọng lại, dường như có vật gì đang bò lên với tốc độ cực nhanh.

Trước đây, khi ở ngoài khoang chiếc Rắn đen II, anh đã phát hiện có tiếng động tương tự như vậy, lúc này lại thấy nó xuất hiện, anh lập tức đề cao tinh thần cảnh giác.

Hải ngọng và gã Gấu trắng ở bên cạnh cũng đều nhất loạt giương súng lên, sẵn sàng ngắm bắn.

Ba người bọn họ đều là những kẻ từng trải, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nên trước khi nhìn thấy mục tiêu, họ tuyệt đối không nổ súng mù quáng.

Ba người giơ cao ngọn đèn chăm chăm quan sát, chỉ thấy từ nơi sâu trong bụi cỏ xuất hiện một con thằn lằn màu xanh ngọc, to như nắm tay, từ đầu đến chân thon dài, xanh mỡ màng như ngọc phỉ thúy, cặp mắt lồi ra trông như hai ngọn đèn đỏ, miệng không ngừng thè chiếc lưỡi dài, đớp những con ngài mắt kính bị nước mưa đánh rụng trên mặt đất, động tác cực kỳ mau lẹ, thần tốc.

Con thằn lằn cỏ không tránh người, bò một mạch đến trước mặt bọn họ.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều biết đây là loại thằn lằn thường xuất hiện trong rừng rậm, con có kích thước nhỏ gọi là thằn lằn, còn con có kích thước lớn gọi là rồng Komodo.

Lúc bình thường nó nằm im như chết, nhưng khi trườn bắt mồi thì nhanh như cắt.

Nó sinh trưởng rất chậm, nghe nói ở miền núi Miến Điện, từng có người bắt được con rồng Komodo hơn một trăm tám mươi tuổi, thân mình to lớn ngang ngửa với một con trâu đực.

Hải ngọng thấy vậy, lập tức hạ bớt cảnh giác.

Anh đã hành quân nhiều năm trong rừng già núi sâu, cũng rất giỏi bắt thằn lằn, liền khoác súng lên vai, nhân lúc con thằn lằn không để ý, chộp nhanh lấy nó từ phía sau, bóp chặt đuôi nó, rồi nói với Tư Mã Khôi:

“Chả ngờ trong đầm lầy mà tớ còn tìm được món đồ chơi này”.

Tư Mã Khôi nhíu mày bảo:

“Bốn chân của nó có máu độc đấy, dính một tẹo cũng đủ cậu toi đời, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe quãng đời còn lại, mau ném nó xuống đất, di cho nó một nhát cho xong”.

Hải ngọng nói:

“Lớn bé gì thì cũng coi là một sinh mạng, giẫm chết như thế thì phí quá…”.

Anh vốn định giở trò đùa ác, toan ném con thằn lằn lên người gã Gấu trắng, nhưng lời còn chưa dứt, đã nghe trong lùm cỏ dài gần đầm lầy phát ra những tiếng động loạn xạ, chẳng ngờ vô số con thằn lằn không ngừng ùn ùn chui ra.

Chúng bị bọn bướm đêm thu hút đến, trườn lên với vận tốc cực nhanh, giống như gió cuốn mây tàn, phút chốc đã nuốt sạch bay bọn bướm đêm vào bụng.

Bọn bướm đêm tuy có cánh, nhưng lại chẳng thể bay được dưới trời mưa, nên đành trở thành bữa ăn thịnh soạn cho lũ thằn lằn cỏ.

Lũ thằn lằn bò ra từ đầm lầy càng lúc càng nhiều, những con tranh mồi chậm hơn đồng loại một chút, bèn nóng nảy kêu “chít chít” loạn cả lên, chúng bò loằn ngoằn trên mặt đất, thể hiện sự lo lắng bất an.

Ba người thấy bầy thằn lằn xuất hiện với số lượng kinh người, con nào con nấy xù vẩy khắp mình mẩy, liền bất giác lùi về sau mấy bước.

Con thằn lằn bị La Đại Hải bóp chặt trong tay cũng giãy giụa dữ dội.

Toàn thân nó đều là những chiếc vẩy nhỏ, sắc như dao cạo, trong lúc quằn quại, lớp vẩy của nó cứa cả vào hai tay Hải ngọng, phút chốc máu chảy đầm đìa.

Hải ngọng nổi cơn thịnh nộ, xé tay áo băng vết thương, chửi tục một hồi, rồi định cầm súng săn bắn chết con thằn lằn đó cho hả giận, nhưng thấy bầy thằn lằn từ đầm lầy bò lên nhiều không kể xiết, chúng lũ lượt ùn ùn kéo đến, nên đừng nói một khẩu súng, mà cho dù có bình phun lửa, cũng chưa chắc đã ngăn cản nổi bọn chúng.

Tư Mã Khôi thấy tình thế bất lợi, liền ra hiệu bằng mắt với La Đại Hải, cả hai người lập tức chui vào trong khoang máy bay, gã Gấu trắng người Nga cũng không dám chậm chễ, chui tọt vào theo.

Ba người vội vã đóng chặt cánh cửa, tìm vật chặn các lỗ hổng và khe hở, đề phòng bọn thằn lằn lọt vào trong tấn công.

Ngọc Phi Yến đang dẫn Tuyệt và Karaweik bật đèn pin siêu sáng đi tìm “hàng”.

Tư Mã Khôi thuật lại tình hình bên ngoài cho cô ta nghe, rồi bảo trước mắt trong vòng một tiếng chắc không thể nào ra ngoài được, mà phải đợi đến khi bọn thằn lằn ăn hết sạch lũ bướm đêm rồi mới tính tiếp.

Thằn lằn cỏ ở rừng rậm nguyên sinh Miến Điện có tập tính rất kỳ lạ, ngay cả những người bản địa giàu kinh nghiệm nhất cũng không dám kinh động đến chúng.

Theo lẽ thường mà nói, có rất ít loài thằn lằn mang nọc độc, còn những loại thằn lằn sinh tồn trong rừng rậm Miến Điện đều không có túi độc, thế mà rất nhiều người vẫn chết vì chất kịch độc của nó.

Nghe nói rồng Komodo Miến Điện bản thân không hề có độc, chỉ khi máu tươi của nó từ cơ thể trào ra bên ngoài mới trở thành dịch độc, hơn nữa còn là loại dịch mang độc tính cực mạnh, vô phương cứu chữa.

Đến ngày nay, người ta vẫn không thể điều tra rõ, máu độc dẫn đến chết người của chúng chứa thành phần gì.

Năm đó cũng từng có nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu có liên quan, nhưng chẳng thu được kết quả gì, cuối cùng chỉ có thể giải thích theo cách lý luận của một nhà tôn giáo người Nhật Bản:

sinh vật bản thân chúng vốn dĩ không có độc, chỉ khi chúng tích lũy đủ cảm giác giận dữ, thì mới tấn công vào cái hư vô trong tinh thần của con người mà thôi.

Mọi người biết rõ điểm đáng sợ của thằn lằn cỏ, nhưng rốt cục chúng vẫn chỉ là loài sinh vật bò sát đầu óc đần độn, đội thám hiểm lại có máy bay che chắn, bởi thế chúng chẳng thể tạo ra hiểm họa gì lớn lắm.

Chỉ có điều không biết cơn mưa trong khe núi sẽ kéo dài được bao lâu nữa, bởi vì so với thằn lằn, thì điều đáng sợ hơn gấp nhiều lần chính là đám sương mù giết người bủa vây khắp đáy động.

Khi nãy Tư Mã Khôi suýt chút nữa thì hiến tặng cả tính mạng cho đám sương mù, nên đến giờ anh vẫn còn cảm thấy tim đập chân run.

Nơi sâu trong đám sương mù dày đặc dường như chẳng tồn tại bất kỳ thứ gì, khoang máy bay cũng không tìm thấy thi thể của thành viên phi hành đoàn, có lẽ họ và đội thám hiểm Anh trong chiếc Rắn đen II đều vĩnh viễn “tan biến” trong sương mù.

Anh nói với hội Ngọc Phi Yến tuyệt đối không được chạm vào màn sương mù bí ẩn trào ra từ lòng đất, sương khí càng đậm đặc thì càng nguy hiểm.

Tuy rằng cơn bão nhiệt đới Buddha bội phần hung tàn dữ dội, nhưng nó lại mang đến cho chúng ta cơ hội vô cùng hiếm hoi để thoát khỏi bàn tay thần chết, đồng thời có khả năng sẽ lấy được “hàng” ra khỏi núi Dã Nhân.

Thế nhưng Ngọc Phi Yến vì đang nhìn chăm chăm vào khoang hàng như kẻ mất hồn, nên cô không hề để ý đến mấy lời của Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thấy thần sắc Ngọc Phi Yến khác thường, đang định hỏi xem rốt cục có chuyện gì, thì nghe Tuyệt ở bên cạnh nói với mình:

“Anh không nhớ sao, trong cuốn băng ghi âm mà chuyên gia hang động người Anh đó để lại, từng nhắc đến một việc, anh ta nói hàng chứa trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải.

cực kỳ nguy hiểm”.

Tư Mã Khôi nghe xong mới chợt nhớ ra khi nãy quên bẵng mất việc này, sinh vật bò sát máu lạnh trong đầm lầy dưới lòng đất, cơn cuồng phong giông tố vần vũ ngoài núi, và đám sương mù có thể xuất hiện trở lại bất cứ lúc nào, đều đang là mối hiểm họa tiềm ẩn, trong khi “hàng” ở khoang máy bay lại gần ngay gang tấc.

Xem ra, trước mắt ngay cả khoang chiếc máy bay vận tải cũng chẳng thể an toàn tuyệt đối.

Nhưng “nguy hiểm” mà người Anh kia muốn ám chỉ là thứ gì?

Nó “nguy hiểm” đến mức độ nào?

Chẳng lẽ chạm cũng không được chạm, xem cũng không được xem hay sao?

Tuyệt vừa cùng Ngọc Phi Yến lục soát kỹ lưỡng toàn bộ khoang hàng máy bay, cô hạ giọng nói với Tư Mã Khôi:

“Chiếc máy bay vận tải này căn bản chẳng chuyên chở bất kỳ loại “hàng” nào cả, chúng ta bị mắc lừa rồi.

” Lúc Tư Mã Khôi vừa chui vào khoang, thì nhìn thấy phía sau máy bay có chứa một thùng hàng giống chiếc thùng phuy khổng lồ, dường như cả khoang hàng đều bị nó chiếm hết chỗ, nhưng đến tận giờ, anh vẫn chưa biết bên trong nó đựng thứ gì.

Anh chỉ mong mau chóng lấy được hàng, rồi kết thúc nhiệm vụ thót tim này, nhưng lúc này nghe Tuyệt nói trong máy bay chẳng hề có “hàng”, anh không khỏi ngạc nhiên hỏi lại:

“Khoang hàng máy bay chỉ có mỗi cái vỏ rỗng thôi sao?

” Căn cứ vào những thông tin mà hội Tư Mã Khôi được biết trước mắt, chiếc máy bay tiêm kích vận tải thuộc về không quân Hoàng gia Anh, lúc đang thực hiện nhiệm vụ, thì gặp thời tiết khắc nghiệt, mất tích trong hẻm núi Dã Nhân, khoang hàng chở rất nhiều bảo vật Miến Điện, giá trị không thể ước lượng nổi; còn đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, lại được một nhà tài phiệt nào đó thuê tìm kiếm “hàng” trong chiếc máy bay với bất kỳ giá nào.

Giờ đây, mọi người đã tìm thấy chiếc máy bay, nhưng tung tích của “hàng” thì vẫn chưa thấy, cùng lắm cũng chỉ là một phen vồ hụt, chứ sao có thể nói là “bị mắc lừa”?

Tư Mã Khôi biết rõ Tuyệt không phải hạng người nói sai sự thật, nên trong lòng anh cảm thấy có điều gì uẩn khúc.

Anh không hỏi thêm gì nữa, mà vội vàng cùng Hải ngọng đẩy nắp thùng hàng sang một bên để nhìn cho rõ.

Hai người cầm đèn chiếu halogen nhòm vào, khi nhìn rõ tình hình bên trong, thì cả hai đều rùng mình một cái, đồng thanh kêu lên thất kinh:

“Thằng cha này được, một quả bom to tổ bố!” Hồi 4 :

Bom địa chấn Thì ra chiếc thùng hàng bằng nhôm giống như thùng phuy kia lại là thùng chứa bom ngoại cỡ, bên trong đựng một trái “bom địa chấn” hạng nặng.

Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoàng gia Anh từng trang bị hàng loạt bom chấn động cỡ lớn, quả nặng nhất phải lên tới chục tấn, được gọi là “Grand Slam (1), sức hủy diệt vô cùng đáng sợ.

Loại bom cỡ lớn này, đa số đều do máy bay ném bom Lancaster từ không trung thả xuống, chuyên dùng để phá hủy vật chắn kiên cố dưới lòng đất được đúc bởi bê tông cốt thép.

Do bom rơi xuống với vận tốc cực nhanh, nên sóng xung chấn hình thành sau khi phát nổ sẽ khuếch tán rộng ra tứ phía, dẫn đến hiệu quả gần giống với hiện tượng động đất, bởi vậy nó còn có tên là “bom địa chấn”.

Nhưng tuyệt đối không thể coi thường sóng xung chấn sinh ra do quá trình phát nổ mạnh, vì nó có khả năng sát thương rất cao đối với quân địch đang lẩn trốn trong đường hào giao thông hoặc trong hầm phòng không.

Hội Tư Mã Khôi đều đã từng trải qua chiến dịch Kunlong ở giai đoạn ác liệt thảm khốc nhất.

Lúc đó quân chính phủ muốn khai thông phòng tuyến sông Irrawaddy, nên đã điều động rất nhiều loại pháo hạng nặng, quần thảo đánh phá khắp trận địa kiên cố của quân đội cộng sản.

Tuy rằng trước đó quân cộng sản đã thực hiện công tác chuẩn bị rất chu toàn, đào nhiều hầm ẩn trú và chiến hào sâu, sẵn sàng tư thế chiến đấu, nhưng dưới làn pháo lửa dữ dội, họ vẫn gánh chịu hậu quả thương vong rất nặng nề.

Trong số những binh sĩ hi sinh, có chín mươi phần trăm không phải chết trực tiếp do bom nổ, mà do pháo hạng nặng gây chấn động làm chết đứng ngay trong chiến hào.

Sau chiến dịch này, nguyên khí quân cộng sản bị hao hụt thảm hại, không còn khả năng chiến đấu trực diện với quân đội chính phủ nên đành phải rút lui vào núi thực hiện chiến thuật đánh du kích.

Bởi vậy bọn họ hiểu rõ hơn ai hết, đừng thấy hàng trong khoang máy bay là kiểu bom đời cũ mà coi thường, bởi cho dù quả bom gây chấn động nặng cả tấn này còn lại đến tận ngày nay, thì nó vẫn là loại vũ khí khủng khiếp nhất.

Một khi nó đã nổ, cho dù ai may mắn không bị tan xác ngay tại hiện trường, thì lục phủ ngũ tạng của họ cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát.

Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng rất nhanh, nhưng cũng không thể ngờ nổi bảo vật Miến Điện trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải lại là một quả bom địa chấn lạnh tanh thế này.

Vật lù lù như một đống thiếc xám sắt nguội kia chắc phải nặng đến cả tấn, nếu chỉ dựa vào sức của sáu kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm thì làm sao có thể xoay vần nổi nó?

Huống hồ, trên đời này sao lại có chuyện phi lý như thế, làm gì có kẻ ăn no rỗi hơi, thuê bao nhiêu đoàn thám hiểm đến núi Dã Nhân chỉ để tìm một quả bom ngàn cân như vậy?

Lúc này Tư Mã Khôi mới cảm nhận một cách sâu sắc về chuỗi sự kiện liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải, chỉ e nó phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà giờ đây anh được biết.

Vốn dĩ con đường của hội anh và Ngọc Phi Yến đã khác nhau, hai bên lại chẳng hề có gì liên can; nhưng theo lời hứa lúc trước, hội anh cũng chỉ cần trợ giúp đội thám hiểm tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải trong khe núi núi Dã Nhân, sau đó mang “hàng” ra ngoài.

Bây giờ tình hình chuyển biến đột ngột thế này, anh không thể không hỏi đối phương xem rốt cục thế nào.

Hải ngọng cũng chẳng nể nang gì, quay sang chất vấn Ngọc Phi Yến:

“Nói thật cho cô biết, Hải ngọng tôi vài bữa nay chưa giết đứa nào, chân tay cũng ngứa ngáy khó chịu lắm rồi đây, nếu như cô không giải thích lý do nghe cho lọt cái lỗ tai, thì đừng trách bọn ông cho nếm tí mùi”.

Kỳ thực sau khi nhìn thấy hàng trong khoang máy bay, Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy rất bất ngờ, nhưng trong lòng cô ta đúng thực cũng có vài điều giấu giếm hội Tư Mã Khôi.

Đang lúc cô ta định nói cho Tư Mã Khôi biết, thì nghe La Đại Hải giở giọng uy hiếp, nên chẳng khách khí nữa, đốp luôn:

“Anh bạn họ La đúng là kẻ nhiều lời; tôi cũng nói thật cho anh biết, trong khoang chỉ có mỗi quả bom địa chấn này thôi, nó chính là “hàng” mà đội thám hiểm cần tìm đấy.

Có điều chúng ta chẳng cần phải mang nó ra khỏi núi, mà chỉ cần làm nó phát nổ là được.

Những việc khác các anh không cần hỏi nhiều, chỉ cần làm theo lời tôi nói là được”.

La Đại Hải nghe vậy chế nhạo:

“Cô nói thế thì khác gì không nói, định dọa ma bọn này đấy à?

Để cô tự nói ra, là Hải ngọng tôi đã chừa lại cho chút sĩ diện rồi mà còn chưa biết?

Đừng biến mình thành kẻ được cho liêm sỉ mà vẫn không biết liêm sỉ là gì”.

Ngọc Phi Yến làm gì có chuyện nuốt trôi mấy lời này, cô ta cười nhạt đáp:

“Ba tờ giấy dán thành một cái đầu lừa, mặt của anh cũng to thật đấy”.

La Đại Hải càng nghe càng ức chế, anh nạt nộ:

“Hải ngọng ta gặp bọn cắp vặt các cô, đúng là cáo hoa nằm ấp ổ gà, nói lý không được, đành phải dùng nắm đấm hỏi chuyện vậy…” Tư Mã Khôi thấy hai người này như thể ăn nhầm phải gan hùm, nói chuyện hung hăng, bất cần, căn bản chẳng giải quyết nổi vấn đề gì, đành phải ra mặt khuyên giải.

Anh nói với Ngọc Phi Yến:

“Nói thế dễ làm tổn thương người khác lắm đấy! Đại trượng phu thân chết, tiếng vẫn còn, nếu cô tự tiện chà đạp danh dự người khác như thế, tôi cũng chỉ còn cách tạ lỗi cáo từ tại đây để cất bước về cố hương thôi”.

Nói xong anh gọi ba người còn lại đến, quay lưng như thể định bỏ đi thật.

Ngọc Phi Yến lạnh lùng hừ lên một tiếng, trợn mắt nói với Tư Mã Khôi:

“Nhìn bộ dạng của anh kìa, vừa nhắc đến về nước là hí ha hí hửng, trong suốt hai ngày tôi quen anh, chẳng bao giờ thấy anh hào hứng như thế, hay là ở trong nước có bóng hồng nào đang chờ?

” Tư Mã Khôi nghe cô ả nói thế, cũng không tránh khỏi có chút bực mình:

“Nhà cô bán dấm đấy à, sao nói gì mà chua ngoa thế?

Ba người chẳng hợp lời, càng nói càng căng thẳng, trong khi gã Gấu trắng người Nga thì từ đầu chí cuối mặt đều lạnh như tiền.

Gã đang chăm chú quan sát kết cấu của quả bom địa chấn, hoàn toàn vô cảm với tất cả những việc khác, còn Karaweik lại trễ miệng ngoác ra nụ cười ngờ nghệch, mọi người chẳng coi lời của cậu vào đâu, may mà nhờ Tuyệt khuyên giải, cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.

Ngọc Phi Yến bình tĩnh trở lại, tự biết hiện giờ mình là kẻ thân cô thế yếu, nếu làm hội Tư Mã Khôi điên tiết lên, thì khó mà thu dọn nổi chiến trường.

Thế là, cô ta đành nói rõ toàn bộ quá trình sự việc cho hội Tư Mã Khôi nghe.

Nhóm người của cô ta quả thực được “khách hàng” thuê để đi tìm chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Hoàng gia Anh; nhưng cô ta cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thực sự của khách hàng, chỉ biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở cổ vật Miến Điện chuẩn bị được bí mật đưa vào viện bảo tàng đế quốc Anh, nên nhiệm vụ của đội thám hiểm là vào khe núi dưới lòng đất, tìm “hàng” trong khoang máy bay.

Trước đó, đội thám hiểm được thông báo:

“hàng” trong khoang máy bay vô cùng nguy hiểm.

Trước khi xuất phát, cả đội lại nhận được một bức mật hàm niêm phong dấu đỏ, kèm theo chỉ thị, chỉ khi nào tìm thấy chiếc tiêm kích bị mất tích, đồng thời xác định chính xác số hiệu hàng hóa, mới được phép mở bức mật hàm và giải quyết “hàng” theo phương thức nói trong thư.

Thông tin trong bức mật hàm được viết bằng chất dịch của cá mực, vết chữ sau khi gặp không khí sẽ lập tức bốc hơi biến mất, không để lại chút dấu tích nào.

Ngọc Phi Yến tìm thấy khoang hàng, xem rõ chỉ thị trong mật hàm, mới biết mục đích của chuyến mạo hiểm này là phải dẫn nổ quả bom địa chấn, còn về chuyện bảo vật Miến Điện chứa trong máy bay tiêm kích, chẳng qua chỉ là cái bóng nhằm che đậy chân tướng sự thật mà thôi.

Về tình hình “khách hàng”, Ngọc Phi Yến chỉ biết đó là một vị tài phiệt trong thế giới ngầm, được gọi bằng biệt danh “Nấm mồ xanh”.

Tiền thân của tổ chức này có thể truy ngược về những năm thế kỷ mười sáu, nó được thành lập bắt đầu từ Công ty Britain – Đông Ấn.

Công ty Đông Ấn tiến hành các hoạt động thương mại viễn dương ở Nam Á, chuyên buôn bán nha phiến, buôn lậu thuốc lá, thỏa sức cướp đoạt tài nguyên kinh tế, tiến hành khuếch trương chủ nghĩa thực dân cho đế quốc Anh, đồng thời âm mưu chiếm nguồn lợi nhuận khổng lồ.

Chính phủ Anh ủy quyền cho công ty Đông Ấn tất cả mọi quyền lực, như quyền lũng đoạn thị trường, quyền huấn luyện quân đội, quyền tuyên chiến

- giảng hòa, quyền lập tòa án phán quyết cư dân các nước thuộc địa và bản quốc, nên nó dường như trở thành đại diện chính thức ở nước ngoài của chính phủ Anh.

Thế nhưng quy luật ở đời:

cực thịnh tất sẽ suy, cùng với sự phát triển rực rỡ của nền tư bản công nghiệp, công ty Đông Ấn vốn dựa vào sự lũng đoạn của nền tư bản thương mại, cuối cùng cũng không tránh khỏi vận mệnh phá sản giải thể.

Nhưng sự biến mất về thể xác chẳng qua chỉ là lớp vỏ ngoài của công ty Đông Ấn, còn kẻ thao túng đích thực đứng sau lưng thì ngược lại có thể nhờ đó mà gỡ bỏ được cái xác ung nhọt nặng nề, rồi lợi dụng mạng lưới quan hệ mà công ty Đông Ấn để lại, ngấm ngầm cấu thành một thế lực mới.

Thế lực này đồng thời buôn bán tin tình báo, vũ khí và thuốc phiện, rồi dựa vào cơ hội chiến tranh để gặt hái tiền của, khống chế rất nhiều đội quân phụng mệnh như con rối.

Thế lực của nó bám rễ sâu rộng ở khắp nơi, nhưng hành sự vô cùng kín tiếng bí mật, nên thế giới bên ngoài phần lớn đều không biết đến sự tồn tại của nó.

Tuy rằng những điều Ngọc Phi Yến biết chỉ giới hạn đến đây, nhưng cô ta nhìn kí hiệu đặc thù trên thân quả bom nặng cả tấn thì cũng không khó khi suy đoán tiền nhân hậu quả của toàn bộ sự việc:

chiếc máy bay tiêm kích vận tải và quả bom địa chấn chứa bên trong, quá nửa đều thuộc về kẻ có biệt danh là “ Nấm mồ xanh”.

Địa thế khe sâu núi Dã Nhân rất đặc biệt, dưới lòng đất không chỉ có sương mù che khuất tầm nhìn, mà còn có dòng khí lưu thông cực mạnh, nếu lợi dụng loại máy bay chiến đấu đến thả bom từ trên không, thì căn bản không thể phán đoán được độ sâu thẳng đứng của huyệt động, từ đó khó lòng phá nổ chính xác, mà nếu lỡ khe núi bị sụt lở, thì sự việc càng trở nên dở hơn mà thôi.

Phương tiện duy nhất có thể đi vào khe núi sâu hút là chiếc máy bay tiêm kích vận tải với thiết kế độc đáo.

Bởi vậy “Nấm mồ xanh” mới phái người lái chiếc “tiêm kích”, mang theo quả bom địa chấn vào lòng khe núi, nhưng có lẽ họ không ngờ được mối hiểm họa đến từ đám sương mù, nên khi phi hành đoàn trên chiếc máy bay chưa kịp kích nổ quả bom, thì đã gặp tai nạn bất trắc, thế là họ lại phải lợi dụng các đội cảm tử khác, tiếp tục hoàn thành kế hoạch ban đầu, chỉ có điều không rõ trong đó còn ẩn chứa nguyên do gì chưa thể tiết lộ nữa không.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể lại toàn bộ câu chuyện, cô ta lại lần nữa nhấn mạnh với hội Tư Mã Khôi:

dù sao chuyến này vào núi thực hiện “phi vụ liều mạng” là lấy tiền của người, thay người chịu nạn, nên cho dù hàng trong khoang là bảo vật Miến Điện, thì cũng không đến tay chúng ta, giờ đây lâm vào tình cảnh này, đương nhiên không thể ra về tay không, chỉ đành tiếp tục hành sự theo chỉ thị, kích nổ quả bom địa chấn.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, cơn bão nhiệt đới Buddha với cấp độ và sức mạnh hiếm có, mấy chục năm mới xuất hiện, nếu không nhờ cơ duyên này, đội thám hiểm chắc cũng không thể né tránh khỏi màn sương mù đoạt mệnh mà an toàn xâm nhập vào khe núi, giờ đây phải kích nổ quả bom địa chấn nặng ngàn cân, thì cũng dễ như trở bàn tay.

Có điều, chuyện này vẫn có nhiều uẩn khúc đáng ngờ.

Tuy rằng chiếc máy bay tiêm kích vận tải nhờ vào kết cấu đặc biệt của nó, có thể thâm nhập nơi sâu nhất dưới khe núi, nhưng cụ thể hạ cánh xuống khu vực nào thì khó lòng phán đoán trước được.

Còn quả bom địa chấn trong khoang cũng không thể dịch chuyển sang chỗ khác một lần nữa, mà với khoảng không gian mênh mông vô bờ bến dưới lòng đất này, thì cho dù sức công phá của nó có mạnh hơn nữa, rốt cục vẫn rất khó bao trùm toàn bộ khe núi.

Kết quả của kế hoạch này căn bản sẽ không thể thực hiện đúng như dự tính, vậy thì tại sao lại có người chủ định cho nổ tung mạch núi Dã Nhân?

Trộm nghĩ căn nguyên gốc rễ của việc này chắn hẳn không hề đơn giản, chỉ e hệ lụy khôn lường.

Tư Mã Khôi lại suy nghĩ:

vậy kẻ có biệt danh là “Nấm mồ xanh” rốt cục muốn làm gì, nên có liên quan đến bí mật cổ xưa vùi chôn dưới lòng núi Dã Nhân không?

Việc này rốt cục đâu có liên quan đến bốn thành viên của đội du kích, sao mình phải nghĩ nhiều?

Anh quan sát xung quanh, thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến dường như chẳng còn điều gì giấu giếm đối phương, hơn nữa theo quy tắc trong giới, việc này vốn dĩ không được nói ra, nên bây giờ cũng chẳng còn gì để truy hỏi thêm nữa.

Hội La Đại Hải cũng nghĩ như Tư Mã Khôi, chẳng buồn điều tra gốc gác, cũng không muốn hỏi nhiều nữa, chỉ mong nhanh chóng hoàn thành phi vụ này, sau đó nghĩ cách thoát ra khỏi núi, trước mắt chỉ còn đợi thời cơ đến là bảo gã Gấu trắng người Nga kích hoạt ngòi nổ quả bom.

Nào ngờ giữa lúc ấy lại xuất hiện một biến cố ngoài dự liệu, gã Gấu trắng sau khi quan sát tỉ mỉ quả bom địa chấn, lấy tay ra hiệu bảo mọi người:

“Quả bom này có cài đặt thiết bị hẹn giờ, muốn kích nổ nó cũng rất đơn giản.

Nhưng có lẽ do ảnh hưởng của quá trình rung lắc dữ dội nên thiết bị kích nổ đã bị hư hại, không thể phục hồi, cho nên sau khi kích hoạt, mọi người chỉ còn khoảng thời gian mấy chục phút để di rời.

Uy lực trái bom này lại quá lớn, phạm vi sóng xung chấn bao phủ rất rộng, nên bây giờ chỉ còn cách để một người lại phụ trách kích nổ, những người khác phải rời đi trước, nếu không tất cả sẽ cùng chết chung một hố; thế nhưng người ở lại sau cùng kích hoạt trái bom, chắc chắn sẽ không còn đường thoát thân”.

Sự thực tàn khốc này, giống như một gáo nước lạnh đột ngột hắt thẳng vào mặt mọi người.

Mạng sống của ai cũng chẳng phải từ trên trời tự nhiên rơi xuống, làm gì có người nào chịu ở lại làm xác pháo thế mạng?

Tư Mã Khôi càng biết rõ hơn nữa uy lực của bom địa chấn, bây giờ trên lãnh thổ Miến Điện vẫn còn rất nhiều hố bom rộng không gì sánh nổi, mà đa phần đều do máy bay ném bom của Anh năm đó để lại khi phá hủy lá chắn của quân Nhật.

Những hố bom đó thật chẳng khác chi hố nham thạch, được hình thành do mảnh thiên thạch từ trên trời rơi xuống, vì lớp bề mặt trong hố hình thành các quầng sóng khuếch tán thành từng vòng tròn, bao nhiêu năm sau vẫn chẳng có cọng cỏ nào mọc lên nổi.

Những nơi sóng địa chấn lan đến, đất đá bị nung nóng bỏng, chạm vào là chết, dính vào là tử.

Tư Mã Khôi thầm tính toán trong lòng, thấy chẳng ai đáng phải chết cả, liền nói với Ngọc Phi Yến:

“Vật cố định, còn con người phải chuyển động, người sống cần biết biến hóa ứng phó.

Nếu thực sự không xong, thì chúng ta hãy mặc kệ quả bom đó.

Sau khi trở về, cô cứ nói là đã cố gắng phụng mệnh hết sức, kích nổ trái bom địa chấn, nhưng tiếc thay quả bom xịt này chẳng thèm phát nổ, hoặc có thể đổ lỗi rằng:

đã kích nổ, nhưng uy lực của nó chưa đủ, nên không thể đạt được hiệu quả như mong muốn.

Dù sao thì chỉ cần da môi trên chạm da môi dưới một chút thôi mà, tùy cô muốn nói thế nào chẳng được.

Sau khi cơn bão nhiệt đới qua đi, lòng đất lại bị sương mù bủa vây, lẽ nào họ lại dám xuống đây để tiến hành điều tra hiện trường chắc?

Ngọc Phi Yến lập tức lắc đầu:

“Tuyệt đối không được, anh không biết gì về Nấm mồ xanh đâu, mấy ngón ma thổi đèn như bọt khói này thì giấu nổi ai chứ”?

Tư Mã Khôi vẫn điềm nhiên như không:

“Trong thời đại này, người nào càng nghiêm túc thì càng dễ trở thành kẻ ngốc.

Làm người không nên thật thà quá, đừng quên trên thế giới chẳng bao giờ tồn tại loại mắt nhìn xa vạn dặm, tai nghe xa vạn lý, người ngoài làm sao biết chuyện gì đã xảy ra trong khe núi núi Dã Nhân?

Chúng ta ở đây có sáu người, tôi, La Đại Hải và Tuyệt sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ bơi qua sông Mungkoe trở về Trung Quốc, cả đời này có lẽ chẳng còn cơ hội gặp lại nhau.

Gã người Nga thì là câm dở, hơn nữa gã cũng chẳng sợ chết quá đi chứ?

Hay lẽ nào cô sợ thằng oắt con không hiểu chuyện như Karaweik lỡ lời nói ra?

Tôi thấy chỉ cần cô không tiết lộ, thì tuyệt đối thần không hay, quỷ không biết”.

Hải ngọng cũng nói, không có quy tắc, chẳng thành vuông tròn, nhưng quy tắc đều do con người đặt ra, cho nên chúng ta làm người thì không thể cứ ngồi ôm mãi một quy tắc cứng nhắc, mà phải biết tránh nặng đón nhẹ.

Chỉ cần thằng cha địa chấn này phát nổ, trời rung đất chuyển vẫn là nhẹ, đầm lầy bùn nhão như thế, dựa vào hai cái cẳng, chắc chắn chẳng kịp trốn chạy, thế chẳng phải tất cả chúng ta tự dưng đều khỏe re mãi mãi dưới âm tào địa phủ sao?

Ngọc Phi Yến nghe mọi người khuyên giải, cũng bắt đầu động lòng, đang định đồng ý, thì chợt nghe thấy một giọng nói lạnh băng, trầm đục từ sau lưng vọng tới:

“I’m staring at you!” ****** (1) Grand Slam:

Thắng lợi trong cuộc so tài.

Hồi 5 :

Con mắt ngoài khoang lái Tư Mã Khôi cũng nghe thấy vô cùng chính xác.

Âm thanh đó vừa rất đỗi xa lạ, lại vừa có vài phần quen tai, anh và những người còn lại đều ngầm cảm thấy rùng rợn trong lòng, đồng thời quay đầu lại nhìn.

Trong khoang máy bay tối mù mù, làm gì có bóng người nào thừa ra, chỉ có chiếc máy ghi âm cầm tay vừa phát hiện được trong chiếc Rắn đen II khi nãy là vẫn ngang nhiên nằm trên mặt đất, thì ra đây chính là nguyên nhân khiến mọi người đều cảm thấy âm thanh nghe quen tai.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ:

đây đúng là gặp ma thật, anh vẫn nhớ lúc ở trong chiếc Rắn đen II, không nghe thấy đoạn ghi âm vừa rồi, hơn nữa âm thanh lúc này khàn đục, trầm thấp, hoàn toàn khác với giọng của Wilson trong đội thám hiểm Anh.

Có thể khẳng định, giọng nói này vô cùng xa lạ, không biết ai đã nhấn nút bật của chiếc máy ghi âm nhỉ?

Khi nãy sự chú ý của tất cả mọi người đều tập trung vào trái bom địa chấn, nên không ai để ý đến tình tiết này.

Ngọc Phi Yến nhặt chiếc máy ghi âm lên xem lại, phát hiện nội dung ghi âm ban đầu đều bị xóa sạch, tua đi tua lại mấy lần, đều chỉ có duy nhất một câu:

“I’m staring at you…”, nghe mãi đến cuối cùng pin yếu, âm thanh càng lúc càng kéo dài, nghe rất quái dị.

Hải ngọng hỏi:

“Câu nói đó có nghĩa gì vậy?

Tuyệt dịch lại cho anh:

“Có nghĩa là “Ta đang nhìn các người”.

Hải ngọng cảm thấy vô cùng kỳ quái, nhìn trước nhìn sau rồi nói:

“Ai đang nhìn chúng ta hả?

” Lúc rời khỏi chiếc Rắn đen II, mọi người khá vội vàng, chẳng ai còn nhớ sau khi nghe xong cuộn băng ghi âm, ai là người cuối cùng cầm nó, nhưng trong khoang máy bay, ngoại trừ sáu người sống ra, thì chẳng còn kẻ may mắn nào sống sót nữa cả.

Vậy thì ai là kẻ đã xóa trộm nội dung trước đây trong băng rồi để lại lời cảnh cáo này?

Mọi người thì vậy, nhưng Ngọc Phi Yến lại cực kỳ quen thuộc với âm thanh này.

Tuy từ trước đến giờ, nhóm của cô ta đều liên lạc thông qua người phụ trách trung gian, nhưng cô ta cũng từng vài lần nói chuyện công việc chi tiết bằng điện thoại với kẻ đầu não phía sau của tổ chức mang tên “Nấm mồ xanh”, biết giọng đối phương khàn đục, sống sượng, nghe rất khác người bình thường, nên chỉ cần nghe qua một lần thì sẽ không thể quên được.

Bởi vậy, nghe thấy âm thanh vọng ra từ băng ghi âm, cô ta lập tức biết đây chính là “Nầm mồ xanh” – người đã phân công nhiệm vụ cho đội thám hiểm.

Cũng vì ngoại trừ giọng nói của người này ra, thì tên tuổi, tướng mạo, thân phận v.

cô ta đều không biết chút nào, do đó mà cô ta đành phải gọi hắn bằng cái tên “Nấm mồ xanh”.

Ngọc Phi Yến ngẫm kỹ lại việc này, càng nghĩ càng thấy lạnh sống lưng, sự việc đúng là quá đỗi kỳ quái khiến người ta khó lòng định liệu.

Rốt cục ai là kẻ đã mở cuốn băng ghi âm?

Lời ghi âm trong đó vốn dĩ không hề tồn tại, chắc chắn nó không thể nào tự nhiên xuất hiện, lẽ nào Nấm mồ xanh thực sự có khả năng sử lý xự việc cách xa ngàn dặm bằng cảm giác?

Trộm nghĩ trên thế giới này không thể có loại tà thuật nào kỳ dị đến thế.

Ngọc Phi Yến cầm máy ghi âm nhìn đi nhìn lại, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi, nếu trên thế giới quả thực không có mắt nhìn vạn dặm, tai nghe vạn lý, thì chỉ có một khả năng:

đó là vào thời khắc này, Nấm mồ xanh đang ẩn trốn trong chiếc tiêm kích vận tải, có thể một trong sáu kẻ may mắn sống sót chúng ta, có một kẻ là “quỷ biển”, nên nhất cử nhất động của đội thám hiểm trong khe núi đều không thoát khỏi tầm mắt của Nấm mồ xanh.

Lời này thốt ra đã khiến mọi người đều cảm thấy dường như có một bóng đen âm u vụt lướt qua tim.

Khi nãy, mọi người còn đang bàn bạc từ bỏ kế hoạch hành động, thì đột nhiên từ máy ghi âm lại vọng ra một câu nói, sự thật hiện ra trước mắt hết sức rõ ràng:

Nấm mồ xanh đang muốn cảnh cáo đội thám hiểm:

“Đừng hòng ôm bất kỳ mơ tưởng, ảo vọng nào, phải mau chóng kích nổ bom địa chấn”.

“Quỷ biển” mà Ngọc Phi Yến nhắc đến, cũng là một cách gọi trong ngôn ngữ cũ của giới lục lâm, bây giờ từ này được dùng để chỉ “tai mắt”, “gián điệp”.

“Biển” ý muốn chỉ bí mật, “quỷ” có nghĩa là ngầm theo dõi, cách xưng hô này cũng có lai lịch hẳn hoi.

Trước đây, những ám ngữ mà giới lục lâm thường dùng, được gọi chung là “Mắt giang hồ đáy biển”, tương truyền hàng ngàn năm trước, có một người đánh cá trên biển, nhưng anh ta liên tục quăng ba mẻ lưới, đều chẳng thu được gì, mẻ lưới cuối cùng lại vớt phải một chiếc hộp sắt, trong hộp sắt đựng một phần của tập sách cổ.

Người ngư dân đó liền mang ra chợ cho mọi người xem, những người có học vấn cao đều đọc được tất cả các chữ trong cuốn sách, nhưng câu từ lắp ghép lại thì đầy ẩn ý và rất khó lý giải, đọc xong như hiểu mà lại như không, chẳng ai biết rõ rốt cục nó ghi chép nội dung gì.

Sau đó, cuốn tàn thư đã rơi vào tay một sư phụ lục lâm, ông ta đã đặt tên cho nó là “Đáy biển”, mượn nguyên tác đồng thời cộng thêm đôi chút sửa chữa thêm thắt, dần dần đã biến thành ám ngữ ngầm được giới giang hồ sử dụng rộng rãi sau này.

Cuốn tàn thư được mệnh danh là cuốn “Kinh kim cương” lừng danh khắp năm hồ bốn bể.

Đây chính là lai lịch của “mắt giang hồ đáy bể”.

Tư Mã Khôi nhận ra câu nói vừa rồi của Ngọc Phi Yến, là lời đồng âm đa nghĩa, cô ta đang muốn ám chỉ cho mình biết tên “quỷ biển” kia ẩn thân rất kỹ, chẳng có tung tích nào mà tìm kiếm.

Nấm mồ xanh để lại lời cảnh cáo trong cuốn băng ghi âm, cũng chưa chắc là “người”, bởi vì nếu là người, thì sao lại vô hình vô ảnh, mà có thể nói rõ ràng rạch ròi đến thế?

Đối phương đã nắm rõ mọi tình hình, thì khoảng cách tất phải ở gần ngay trước mắt mọi người, ngoài ra, khoang máy bay nhỏ hẹp, kín mít, làm gì có chỗ nào ẩn giấu người được?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, bất luận Nấm mồ xanh là người hay là ma, đối phương chắc chắn đang trốn trong khoang máy bay, nhưng trong khoang tất cả chỉ có sáu người mà thôi.

Anh biết rõ bản thân mình hoàn toàn không liên quan đến Nấm mồ xanh, còn năm người còn lại, giơ bàn tay ra đếm cũng có thể đếm rất rõ ràng:

La Đại Hải và Tuyệt đương nhiên không cần nói, Karaweik tuy là người Miến Điện bản địa, nhưng một cậu thiếu niên vùng sơn cước mới mười mấy tuổi đầu thì làm được được trò trống gì?

Sao có thể là đầu não tổ chức thương mại lớn nhất trong thế giới ngầm ở Đông Nam Á.

Huống hồ, thời gian Karaweik theo chân đội du kích cộng sản Miến Điện cũng không phải là ngắn, trong khi việc gặp đội thám hiểm ở núi Dã Nhân là việc mới chỉ xảy ra khoảng hai, ba ngày, bởi thế chắc chắn cậu bé cũng chẳng liên can gì đến Nấm mồ xanh.

Lại nghĩ Ngọc Phi Yến là thủ lĩnh đội thám hiểm, nếu cô ta quả thực không cần biết đến hậu quả, mà cho kích nổ quả bom địa chấn trong khoang máy bay, thì những người còn lại cũng không cố sống cố chết ngăn cản làm chi, mà việc gì cô phải giả thần giả quỷ với chính mình, bởi thế Ngọc Phi Yến cũng có thể loại trừ ra ngoài.

Theo lý mà nói, nếu thực sự có một gã “quỷ biển” ngấm ngầm theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, thì đó phải là kẻ ẩn mình dưới lớp vỏ thuộc hạ của Ngọc Phi Yến; nhưng từ khi đội thám hiểm vào núi đến giờ, các thành viên gần như đều bị chết hết, chỉ có hai người may mắn sống sót là Ngọc Phi Yến và gã Ciglovaski người Nga.

Tư Mã Khôi cảm thấy gã khọm người Nga tuy tính tình lạnh lùng, tàn nhẫn, giết người không ghê tay, tuyệt đối không phải hạng lương thiện gì, nhưng vẫn có một điểm không thể bỏ qua:

gã mũi to này là chuyên gia bom mìn, chất nổ, nên đối với quả bom địa chấn hạng nặng trong khoang máy bay, chắc chắn chẳng ai có thể hiểu về nó hơn gã.

Nếu không phải là gã đã chỉ ra thời hạn kích nổ quả bom, thì những người xung quanh nào biết nguy hiểm ẩn chứa bên trong.

Bởi vậy, qua chi tiết này cũng có thể thấy Ciglovaski không phải là kẻ có biệt danh Nấm mồ xanh.

Tư Mã Khôi suy đoán loạn xạ một hồi, đầu óc mau lẹ sắp xếp mọi người thành hàng dọc, xem xét liền mấy lượt, về cơ bản, anh phủ định phán đoán trong sáu người có một kẻ là Nấm mồ xanh.

Thế nhưng kẻ được gọi là Nấm mồ xanh chắc chắn vẫn đang trốn trong khoang, chỉ có điều hắn trốn ở “góc chết” mà mọi người không ai nhìn thấy được.

Mà cũng không hẳn đó là “góc chết” về mặt thị giác, bởi rất có khả năng là “góc chết” trên trường nghĩa tâm lý, nghĩa là “góc chết” mà người ta không thể tưởng tượng được bằng tư duy thông thường.

Những người còn lại đều giống như Tư Mã Khôi, xoay vần sự việc mấy lượt trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy kinh hoàng bất an, nhưng giờ khắc này, chẳng ai dám mở lời bàn bạc.

Bởi vì lời càng nhiều họ càng dễ lỡ miệng, biết rõ trong khoang có một Nấm mồ xanh giống như vong hồn đang đứng cạnh ngầm theo dõi, nó đã có thể sử dụng máy ghi âm để phát lời cảnh cáo trong lúc mọi người không hề phát hiện ra, nên nếu như nó ngấm ngầm ám hại, thì cũng đủ khiến người ta có đề phòng cũng như không.

Hải ngọng đột nhiên nảy ra suy một nghĩ kỳ lạ:

nói cuốn băng ghi âm này xuất hiện một cách kỳ quái, không khéo bên trong có ma, thì nhân lúc sớm sủa, mau chân giẫm nát nó cho xong, tránh khỏi sau này món đồ chơi kia lại tự mình giở trò quái quỷ nào đó, khiến chúng ta ở nơi tối lửa tắt đèn này màn còn phải nơm nớp đề phòng nó.

Nghĩ đi nghĩ lại có khi đây chẳng qua là tâm bệnh.

Nói xong, anh liền ném nó xuống đất, dùng cán súng gõ đập không thương tiếc.

Chiếc máy ghi âm của đội thám hiểm Anh để lại, vỡ vụn thành từng mảnh, cuộn băng bên trong cũng vỡ hỏng hoàn toàn.

Mọi người nhất thời im lặng, chẳng ai nói với ai lời nào.

Tư Mã Khôi thấy dường như khó có thể nhìn thấy dấu tích gì từ vẻ bề ngoài, nên cũng không muốn rút dây động rừng.

Để tiết kiệm nhiên liệu, anh liền tắt đèn halogen đang cầm trên tay, chỉ dùng chút ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn pin.

Loại ánh sáng này vô cùng ảm đạm, nhưng năng lượng tiêu hao tương đối nhỏ, có thể duy trì chiếu sáng trong thời gian rất lâu.

Khoang máy bay phút chốc chập chờn bóng sáng, người hay ma khó mà phân biệt nổi.

Tư Mã Khôi quanh năm lảng vảng ở nơi đầu súng mũi gươm, xem sự sống cái chết đều nhẹ tựa lông hồng, thêm vào đó lại có tâm lý phản nghịch thiên bẩm rất mạnh, thì làm gì có chuyện chịu để yên mặc cho người khác xoay vần?

Tuy anh không biết tình hình cụ thể về kẻ được gọi là Nấm mồ xanh, nhưng thấy kiểu hành sự của hắn đầy bí hiểm, quái dị, thì đoán ngay tên này chắc chắn thuộc loại tà môn ngoại đạo, việc gì mình phải bán mạng cho những hạng người như thế?

Ông mày bảo không làm là không làm, đứa nào làm gì được ông?

Nghĩ đến đây, anh một lần nữa lại gọi mấy anh em trong đội du kích cộng sản Miến Điện đến, chuẩn bị “phủi đít ra về”.

Nhưng Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy cái đầu băng bó trắng xóa của Karaweik thì lập tức lại nhớ ra:

“Lúc đội du kích cộng sản Miến Điện tan rã, Karaweik đã không quản nguy hiểm, dẫn bọn mình từ con đường U Linh đi xuyên qua núi Dã Nhân, giờ đây làm sao mình có thể mặc kệ sự sống chết của cậu bé?

Có điều, hoàn cảnh trước mắt của hội Tư Mã Khôi ngay cả cái mạng của bản thân cũng khó bảo toàn, còn người có thể dẫn Karaweik chạy trốn khỏi Miến Điện chỉ có một mình Ngọc Phi Yến, nên anh lại đành ghìm lòng lại, hỏi Ngọc Phi Yến bây giờ dự định làm thế nào, hay là phải để một người ở lại kích hoạt quả bom địa chấn?

Ngọc Phi Yến trong lòng rõ hơn ai hết, người nào ở lại người đấy sẽ cầm chắc lệnh bài tử hình.

Thực ra cô ta chẳng buồn bận tâm đến điều này, bởi vì trong mắt cô ta, sinh mệnh và giá trị sinh mệnh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bởi thế cô ta cũng dễ dàng đưa ra quyết định về cái được cái mất.

Trong lòng Ngọc Phi Yến sớm đã có sự tính toán so sánh thiệt hơn, liền nói với mọi người:

“Bây giờ chúng ta sẽ rút thăm phán định sống chết, ai rút phải quân bài đen sẽ phải ở lại kích nổ quả bom, kẻ ở lại sống hay chết đành phải tuân theo mệnh trời vậy…” Tư Mã Khôi nghe xong, trong lòng ngầm phán đoán:

“Tổ tiên Ngọc Phi Yến xuất thân là dân trộm mộ Quan Đông, kỹ thuật ngửa bài này chắc chẳng ai thắng nổi cô ả, vì xem ra mọi người có vẻ đều bình đẳng như nhau, nhưng trên thực tế, tất cả quyền định đoạt đều do cô ả ngầm nắm giữ”.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, đang định lên tiếng vạch trần thủ đoạn, nhưng lời chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì đã nghe Tuyệt nói trước với Ngọc Phi Yến:

thời gian hẹn giờ của quả bom địa chấn chỉ có hạn, trong khi Nấm mồ xanh khi nãy vừa lợi dụng máy ghi âm để cảnh cáo mọi người, mà hắn lại thật sự đang ẩn nấp giữa chúng ta, vậy thì hắn cũng có khả năng rút phải quân bài đen, bị bom nổ thịt nát xương tan, nói không chừng thời gian mấy chục phút đó cũng chẳng đủ để hắn chạy thoát.

Ngọc Phi Yến cúi đầu đáp:

“Cũng mong như vậy”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải ngược lại không thể nào chấp nhận suy đoán này.

Tuy ngoài miệng chẳng nói gì, nhưng trong lòng họ đều nghĩ:

“Trên thế giới này, kẻ điên nào mà không có chứ?

Có thể đúng là chúng ta gặp phải tên không sợ chết, huống hồ đối phương trốn trong chỗ tối, u hồn tựa bóng ma vô hình vô ảnh, hắn có phải người sống hay không còn khó nói nữa là”.

Tư Mã Khôi nghe thấy âm thanh bò trườn của bọn thằn lằn cỏ bên ngoài khoang cửa đã có phần suy yếu, cùng lúc Hải ngọng lại ngồi khuyên can Ngọc Phi Yến, bảo cô hãy từ bỏ ý niệm kích nổ quả bom:

“Xem ra cô cũng không có vẻ là người cứng nhắc, bảo thủ.

Cô cứ nghĩ kỹ lại mà xem, thằng cha địa lôi này đủ sức phá nổ cả dãy núi Dã Nhân khiến trời rung đất chuyển.

Hơn nữa ở khu vực sâu hút dưới đáy này, sương mù vẫn chưa tan hết, cho dù chỉ để lại một người kích nổ thì biết đâu là sau khi bom nổ, sương mù dày đặc lại đột nhiên từ dưới lòng đất ùn ùn trào lên, khi đó ngay cả những người đã tháo chạy trước đó cũng tuyệt đường sống luôn.

Hơn nữa, lúc chúng ta phát hiện ra cuốn băng ghi âm trong chiếc Rắn đen II, quả thực cũng bị nó làm cho mất hồn mất vía, sau đó mới biết chẳng qua chỉ là sợ bóng sợ gió vớ vẩn.

Có khả năng lời cảnh cáo vừa rồi xuất hiện trong máy ghi âm cũng chỉ do mọi người nhất thời hoảng loạn, không thể phân biệt rõ chân tướng thật sự mà thôi, hết nghi thần nghi quỷ, lại nghi người, cứ ngồi đó nghi nghi hoặc hoặc mà tự mình giết mình…” Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều tự tìm những lý do mà ngay cả bản thân mình cũng khó tin nổi, hòng đánh tan ý niệm của Ngọc Phi Yến.

Nhưng lúc lời mới nói được một nửa, thì đã thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến trở nên vô cùng khó coi.

Họ phát hiện hướng nhìn của cô là nhằm vào vị trí khoang lái ở ngay sau lưng mình, nên trong phút chốc đều cảm thấy khí lạnh xâm chiếm da thịt, vội vàng quay người xem rốt cục là thứ gì.

Vừa mới ngoảnh đầu lại thì thấy trong bóng tối có một con mắt khổng lồ ám đầy ma khí, ánh mắt nhấp nháy như ánh nến, đang im lặng bất động nhìn chằm chằm vào những người ở trong khoang.

Hồi 6 :

Kinh hoàng Tư Mã Khôi thấy hiện tượng lạ, không kịp đi tìm đèn halogen, trong lúc hấp tấp, đành vội xách đèn pin, mượn ánh sáng yếu ớt của nó nhìn về phía trước, chỉ thấy bên ngoài khoang lái có một con mắt khổng lồ nhìn chằm chằm không rời.

Mắt to như cái bánh xe, hai mí mắt chầm chậm khép mở, thần sắc vô định, dường như nó đang nhìn xuyên thấu qua ô cửa sổ khoang lái, bám dính vào sáu người sống đứng bên trong.

Sau khi quan sát rõ ràng, Tư Mã Khôi biết đây là mắt của một con rồng Komodo to lớn khác thường.

Do quanh năm sống ở nơi huyệt động tối tăm ẩm ướt, thường xuyên bắt các loại côn trùng có lân quang làm thức ăn, nên phần mắt của nó không những không bị lớp vẩy che mờ, mà ngược lại thị lực càng được tiến hóa hơn, hai mắt lồi hẳn ra phía ngoài.

Không tính cái đuôi, thân thể của nó vẫn dài đến năm, sáu mét, da cứng thịt dày; bình thường nó có thể nằm im bất động như tượng gỗ hàng mấy tháng ròng, nhưng lúc này nó bị ánh đèn trong chiếc tiêm kích vận tải dẫn dụ đến.

Tuy rằng trên người ai nấy đều có súng và dao săn, nhưng rồng Komodo sống trong núi sâu Miến Điện, bất phân lớn nhỏ, trên mình đều mang chất kịch độc, có thể dùng mắt khống chế người trong vòng trăm bước, rất khó phòng bị, nên chẳng ai dám chọc giận chúng.

Một khi rồng Komodo triển khai tấn công, nó sẽ trở nên đáng sợ hơn cả cá sấu đầm lầy.

Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, vội vàng tắt đèn pin đang cầm trong tay, nhỏ giọng nói với mọi người:

“Đừng động đậy!” Hội Ngọc Phi Yến không ai không biết rồng Komodo có thị giác linh động với mọi trạng thái, nó vô cùng nhạy cảm với vật thể di động và ánh sáng, nên chẳng ai dám cử động dù rất nhỏ.

Tai họ nghe thấy trên nóc máy bay như có vật thể gì rất nặng chậm chạp ngọ ngoạy, đoán chắc đó là một con rồng Komodo khác, đang bò lồm ngồm trên nóc, mọi người liền lập tức tắt hết mọi nguồn ánh sáng bên mình.

Cả khoang máy bay trong khoảnh khắc đã trở nên đen quánh như sơn, chỉ có vảy lân quang lấp lánh cứ chập chờn nhấp nháy, đó là vảy lân quang của những con bướm đêm bị ánh đèn thu hút đâm loạn xạ vào người lúc ở lùm cỏ

- trước khi đội thám hiểm vào trong máy bay.

Tuy đi dưới màn mưa, nhưng họ vẫn bị khá nhiều bụi lân quang bám dính, đồng thời còn có không ít con bướm đêm theo chân bay vào bên trong.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, mấy con rồng Komodo vẫn còn luẩn quẩn ở đây chưa chịu bỏ đi, nguyên nhân chắc là do đám bướm đêm còn lại này, anh đang định phủi sạch bụi lân quang trên mình, thì đột nhiên thấy nóc máy bay phát ra âm thanh kêu “răng rắc”.

Chiếc máy bay ngủ im trong đầm lầy dưới lòng đất suốt một thời gian dài, kết cấu chất gỗ đã sớm bị mối mọt mục nát bởi không khí ẩm ướt xâm hại thì làm sao có thể chịu được thân thể khổng lồ nặng nề của rồng Komodo, chỗ lúc trước bị súng săn voi bắn thủng, bây giờ đều bị ép xuống đến nứt toác.

Chi sau của con rồng Komodo khổng lồ thụt xuống khe nứt.

Trong lúc khẩn thiết khó lòng thoát thân, nó vắt kiệt sức dùng đuôi quẫy đạp, khiến chiếc máy bay bị rung lắc gần như tan ra thành từng mảnh.

Hằng hà sa số những con thằn lằn nhỏ nhân cơ hội này đã lẻn chui vào bên trong qua các kẽ nứt.

Mọi người đứng trong bóng tối, hai mắt không nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy lũ thằn lằn bò từ chân lần ngược lên người, nhưng ai nấy không thể không giơ tay hay đạp chân để giãy chúng ra.

Đúng lúc này, đột nhiên từ quả bom địa chấn bỗng vang lên một tiếng “kịch” , âm thanh tuy không lớn, nhưng hai tai Tư Mã Khôi rất nhạy cảm nên từ vị trí đang đứng anh phán đoán:

hình như nút kích hoạt của quả bom địa chấn đã được mở.

Trong lòng anh bỗng chốc buốt lạnh, biết chắc Nấm mồ xanh đang trốn trong khoang máy bay đã giở trò quỷ, phen này rắc rối to rồi, quả bom địa chấn hạng nặng với uy lực vô biên sắp phát nổ trong vòng vài phút nữa, mà hậu quả thật không dám nghĩ tới.

Tư Mã Khôi nóng lòng muốn biết, gã Nấm mồ xanh kia rốt cục đã dùng cách gì, để trốn dưới con mắt của mọi người mà không hề bị phát hiện.

Anh chẳng còn bận tâm đến mấy con rồng khổng lồ Komodo đang lởn vởn ngoài khoang lái, lập tức huơ huơ chiếc đèn pin trong tay, quét một đường:

ngoại trừ sáu kẻ may mắn sống sót ra thì làm gì còn người nào thừa, thế nhưng nút kích hoạt ở phần đuôi quả bom địa chấn đúng thực là đã bị “người” trong bóng tối âm thầm khởi động.

Hội Ngọc Phi Yến thấy tình hình khác lạ, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời, biết chắc chuyến này sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa.

Quả bom chứa trong chiếc tiêm kích số hiệu Rắn đen, tuy không thể sánh với quả “Grand Slam” đã san phẳng cả dãy núi, nhưng khối lượng của nó cũng đủ để người ta khiếp vía, vì gần như vượt qua cả cực giới hạn tải trọng của chiếc tiêm kích vận tải.

Giờ phút này, cho dù mọi người có mọc thêm vài cái chân, cũng không thể chạy trốn khỏi phạm vi bao trùm nguy hiểm của sóng xung chấn phát nổ trong thời gian ngắn như vậy.

Đám sương mù bí ẩn ngàn năm không tan ở núi Dã Nhân, cơn bão nhiệt đới Buddha hoành hành, động huyệt không đáy giống như kính viễn vọng địa cầu, rồng Komodo, cá sấu, mãng xà Miến Điện mai phục dưới đầm lầy, quả bom địa chấn hạng nặng chứa trong khoang hàng chiếc Rắn đen, và cả “ngôi mộ màu xanh” ẩn chốn giữa bóng tối ngấm ngầm theo dõi hành động của mọi người, vòng sóng nguy hiểm này nối tiếp vòng sóng nguy hiểm khác, vô số ẩn số khó lòng giải thích không ngừng xuất hiện, khiến thể xác và thần kinh của mấy kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, đều bị đẩy đến gần mép vực suy sụp.

Mọi người biết giờ đây chỉ còn đường chết, không còn đường sống, nhất thời đều thất sắc, ai nấy ngẩn người bất động, nhưng sau giây phút ngắn ngủi đó, trong đầu không hẹn mà cùng xuất hiện một ý niệm:

“Chạy! có thể chạy bao xa thì chạy!”, tâm lý này được gọi là “chó cùng dứt dậu”, ngồi đây đợi chết, cùng chiếc máy bay nổ tan xác thành khói bụi tro tàn, chi bằng hãy cố gắng chạy trốn đi thật xa, nói không chừng vẫn còn bảo toàn được thi thể nguyên lành.

Tư Mã Khôi hét gọi những người còn lại:

“Đừng ngẩn tò te ra thế, mau rút thôi!” Ngọc Phi Yến nhắc nhở:

“Vùng đất ẩm ướt phía nam, cỏ mọc um tùm, có thể làm giảm sóng xung chấn của vụ nổ, sau khi rời khỏi máy bay, mọi người hãy cùng chạy về phía đó nhé!” Mắt nhìn thời gian trôi chảy từng giây từng phút, mọi người chỉ mong rời khỏi trái bom địa chấn càng xa càng tốt; nhưng muốn rời khỏi chiếc máy bay, trước hết phải giải quyết xong hai con rồng Komodo khổng lồ đang quần đảo ngoài khoang lái, lúc này không thể không hạ quyết tâm lao ra chiến đấu trực diện với nó.

Hải ngọng xung phong mở màn, anh giương khẩu súng săn bốn nòng, chĩa lên lỗ hổng trên nóc máy bay, ngắm chuẩn vào bụng con rồng Komodo đang nằm ệp ở ngoài, rồi bắn một phát.

Khẩu súng săn này tuy không bằng súng bắn tỉa công phá, nhưng nếu hạ gục mục tiêu gần, thì uy lực của nó lại không loại vũ khí nào có thể sánh kịp.

Chỉ nghe “đoàng” một tiếng rồi khói trắng tỏa ra mù mịt như sương mây, con rồng Komodo khổng lồ thoáng chốc đã ngã vật ra đất, bụng thủng ruột lòi, máu chảy lênh láng.

Cùng lúc này, con rồng Komodo ở ngoài khoang lái, cũng bị gã Gấu trắng người Nga ném quả lựu đạn tan thành hai mảnh.

Nó tuy chết mà không phục, hai mắt vẫn đỏ au au tựa máu nhìn trừng trừng như muốn lồi hẳn ra ngoài, rồi mí mắt lộn mạnh một cái, một tia máu từ hốc mắt bắn vọt ra, xuyên phụt qua khe nứt máy bay.

Rồng Komodo rất giỏi ngụy trang, bình thường nó có thể nằm im bất động giống như phiến đá hoặc thân cây khô, đợi khi con mồi đến gần mới bất ngờ vùng dậy, phun máu độc từ hốc mắt tấn công đối thủ.

Chất dịch máu trong nang mắt của nó kịch độc không gì sánh nổi, hơn nữa tốc độ lại nhanh thần kỳ, khiến người ta khó lòng tránh được.

Gã Gấu trắng người Nga không ngờ con rồng bị tan xác thành hai mảnh, mà vẫn có thể lén tấn công, nên cho dù phản ứng của gã rất đỗi nhanh nhạy, nhưng vẫn bị máu độc bắn vào mắt trái.

Gã đau đớn gào rú thảm thiết như một con mãnh thú bị chọc tiết.

Tuy thể xác đau đớn bội phần nhưng đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã biết rằng một khi bị chất độc từ mắt chạy vào não, thì coi như hoàn toàn xong đời, hết thuốc cứu chữa; dưới sự thôi thúc của khao khát sinh tồn mãnh liệt, gã cố nén cơn đau thấu đến tận tim, gắng gượng móc con mắt bên trái của mình ra.

Phần dịch độc mà gã người Nga tránh được, đều bắn vào thân thể mấy người ở phía sau.

Khoang máy bay chứa một quả bom khổng lồ, sáu người còn lại phải chen chúc nhau trong một khoảng không gian nhỏ hẹp còn lại.

Mọi người chỉ còn cách đứng nghiêng, vì ngay cả xoay người cũng rất khó khăn, làm sao có thể né tránh nổi, kết quả người nào cũng bị máu độc bắn vào.

May mà chất độc chỉ bám vào ba lô hoặc quần áo, không tiếp xúc với da thịt, nhưng gã Ciglovski cao to ngoại cỡ kia lăn lộn giãy giụa, dùng sức quá mạnh, nên chạm cả vào Tuyệt đứng ngay sau lưng.

Tuyệt bị gã xô đẩy, gáy đập vào vỏ sắt cứng đanh của quả bom địa chấn, phút chốc máu tươi chảy ra đầm đìa, trong lúc hoảng loạn, cũng chẳng rõ vết thương nặng nhẹ thế nào.

Mọi người chưa kịp rời khỏi chiếc tiêm kích vận tải thì trong thời gian chớp mắt, liên tiếp hai thành viên nữa lại bị trọng thương, có điều vì nguy cơ cấp bách trước mắt, không cho phép trù trừ nấn ná lâu thêm, nên chẳng ai dám chậm chễ.

Ngọc Phi Yến giơ chân đạp tung cánh cửa, giương khẩu súng xung phong Uzi đi trước mở đường.

Hải ngọng cõng Tuyệt trên lưng, Tư Mã Khôi gọi Karaweik cùng xách nách dìu gã Gấu trắng mặt đầm đìa máu, mỗi người cầm một cây nến tín hiệu, bám sát sau lưng Ngọc Phi Yến.

Không quản đường dưới chân gập ghềnh lồi lõm, họ liều mạng băng băng tháo chạy về phía đầm lầy um tùm cây cối.

Gã Gấu trắng tuy thân thể khỏe như bò mộng, nhưng vừa bị mất một mắt, vết thương quả không nhẹ, lại bị vài phần chất độc ngấm vào não nên thần trí bắt đầu nhiễu loạn, phút chốc mất hết lý trí như kẻ điên dại, rồi thú tính khát máu chợt trỗi dậy, trong lòng chỉ muốn giết người.

Gã phát hiện hai cánh tay đều bị người khác kẹp chặt, liền thuận thế cuốn một vòng, hai bàn tay to phàm phạp như hai cánh quạt, định bóp chặt yết hầu của Tư Mã Khôi và Karaweik.

Tư Mã Khôi và Karaweik xả thân lôi gã tháo chạy khỏi chiếc tiêm kích vận tải, còn thần kinh mạch mệnh đều đổ dồn về quả bom hạng nặng ở phía sau, thì làm sao kịp đề phòng biến cố xảy ra ngay bên cạnh.

Thế nhưng Tư Mã Khôi do suốt ngày lăn lộn nơi đường biên sống chết, từ trước đến giờ vẫn vô cùng nhanh nhạy, còn Karaweik tuy rằng tuổi còn nhỏ, nhưng vì cả ngày trèo cây xuyên núi nên thân thủ cũng lanh lẹ như khỉ, hai người đều ứng biến thần tốc, phát hiện thấy bàn tay to lớn của gã người Nga như hai gọng kìm đang nhằm vào cổ họng mình, liền vội vã lùi người lại, né sang một bên.

Ciglovaski thấy mình vồ trượt, liền lập tức rút dao săn ra, quay người lại chém.

Tư Mã Khôi không kịp đứng dậy, vội lăn mấy vòng trên mặt đất, tránh đường dao chém.

Anh thấy mặt gã Gấu trắng máu thịt hỗn độn, chỉ lộ ra mỗi con mắt hung quang sáng quắc, liền biết gã này đã mất hết lý trí, giống như một con chó dại, một khi nó đã lên cơn, thì chắc chắn sẽ không chịu buông tha, bèn hét lớn bảo Karaweik mau mau tháo chạy, tuyệt đối không được dừng lại.

Karaweik nhìn thấy gã khọm người Nga đột nhiên trở nên hung tợn như ác quỷ, đã sớm kinh hồn thất tán, toàn thân mềm nhèo nhẹo, không biết phải làm thế nào, mãi đến lúc nghe tiếng hét của Tư Mã Khôi, mới giật mình bừng tỉnh, thục mạng lao về phía hội La Đại Hải.

Ai ngờ gã Ciglovaski tuy rằng thần trí đang hoảng loạn, nhưng bình sinh giết người như giết rận, chẳng khác nào cỗ máy giết người do Liên Xô chế tạo, thủ đoạn giết người dường như trở thành bản năng, phát hiện có người chạy trốn, gã không thèm đuổi theo, mà “hừ” lên một tiếng rồi ra sức ném con dao săn trong tay về phía đó.

Con dao săn quân dụng hình vòng cung mà đội thám hiểm sử dụng trong rừng rậm, còn gọi là “dao mở núi”, sống dao dày, nhưng lưỡi rất mỏng và sắc, cán ngắn, thân dài, trước rộng sau hẹp, được làm bằng thép lò xo, là loại dao cực kỳ sắc bén.

Con dao săn từ tay Ciglovaski phóng đi, gấp như sấm đánh, nhanh như chớp giật, chỉ thấy tiếng u u của kim loại vọng lại, nó lượn vòng trên không trung, rồi tiện ngang cổ Karaweik, nghe sắc lẻm, cái đầu người lập tức bị cắt ngang rời ra khỏi thân.

Thế bay của con dao vẫn không hề suy yếu, tiếp tục lượn tiếp vài mét nữa mới chịu rơi xuống đất.

Karaweik đang chạy điên loạn về phía trước, đột nhiên bị con dao sắc từ phía sau cắt một đường vừa nhanh vừa mạnh, tuy đầu đã lìa khỏi thân, nhưng theo quán tính, chân vẫn không dừng lại ngay được, mà tiếp tục chạy thêm dăm ba bước nữa thì thi thể không đầu mới đổ rầm xuống đất.

Màn thảm kịch đột ngột xảy đến quả thực quá nhanh.

Tư Mã Khôi thấy Karaweik chết đứng dưới lưỡi dao của gã Gấu trắng, bản thân lại không kịp đến ứng cứu, tuy nói sinh tử vô thường, chẳng ai đoán trước được, nhưng anh vẫn không thể kìm chế nổi cơn thịnh nộ bốc cháy phừng phừng trong lòng, làm ánh mắt xung huyết đỏ lòm.

Trong lòng dội lên ý niệm giết người, anh ngẩng đầu nhìn gã Gấu trắng cũng đang quay người nhào đến, thầm nghĩ:

“Hôm nay không phải tao chết thì mày phải chết”, rồi lập tức tránh sang một bên thủ thế, hai tay nắm chặt hai cán con dao săn.

Tuy trong lòng Tư Mã Khôi vừa giận vừa hận, nhưng đối mặt với cường địch, anh vẫn không hề mất bình tĩnh.

Tư Mã Khôi biết gã người Nga cao lớn tay dài, chẳng khác nào loài dã thú, hơn nữa gã từng phục vụ trong quân đội Xô Viết nhiều năm, xem tư thế vung tay đá chân của gã thì biết chắc chắn gã này giỏi đấm bốc.

Nên cho dù trên vai anh không bị thương, mà trực diện bổ nhào vào đối phương, thì e rằng cũng không chiếm được nửa phần lợi thế, huống hồ quyết đấu sinh tử, cần phải tốc chiến tốc thắng.

Trong lòng Tư Mã Khôi ngầm định giới hạn, nên anh không giằng co chính diện với gã người Nga, mà chỉ bắn một phát đạn hú họa, rồi tránh sang bên trái đối phương.

Gã Gấu trắng nhào lên không trúng, bèn quay người lại tóm, nào ngờ bước chân Tư Mã Khôi di chuyển nhanh như sóc, tuyệt đối không tiếp xúc mặt đối mặt với gã, anh lui lại, quay người lẻn sang phía phải đối phương.

Gã Gấu trắng thân hình to lớn lực lưỡng, nên khi phải liên tục xoay chuyển hết bên trái lại sang bên phải, tất có đôi chút lóng ngóng, mới chạy được hai ba vòng, bước chân đã bắt đầu loạng choạng, trọng tâm không vững, Tư Mã Khôi nhanh như cắt chớp cơ hội, vật ngửa gã ra đất.

Tuy gã người Nga bị ngã mạnh, nhưng vẫn kịp đạp Tư Mã Khôi một cái.

Tư Mã Khôi không ngờ đối phương ra tay nhanh như vậy, bị đạp loạng choạng, anh cũng ngã nhào xuống đất theo gã.

Tự biết mình phải chạm trán với kẻ thù hiểm ác nhất từ trước đến nay, nhưng lòng quyết tâm báo thù còn mạnh hơn nên anh chẳng hề có ý sợ hãi rút lui.

Vừa ngã, anh liền lập tức đứng bật dậy, tiếp tục cầm con dao săn nhào lên.

Không ngờ, lúc đó mùi máu tanh nồng nặc bốc ra từ cơ thể gã Gấu trắng đã dẫn dụ một con cá sấu đang nằm mai phục dưới đầm lầy.

Nó há to cái miệng đỏ lòm rộng ngoác ngoạm mạnh vào hai chân Ciglovaski, chậm chạp kéo gã về phía sau.

Hàm cá sấu chi chít những chiếc răng nhọn hoắt như lưỡi cưa, lực ngoạm lại rất lớn, nên quá nửa thân người của gã Gấu trắng bị nó nuốt chửng.

Gã bất giác cảm thấy đau buốt đến tận xương tủy, gã cố giãy giụa nhưng không thể thoát ra nổi.

Dưới cơn đau dữ dội, cổ họng gã phát ra những tiếng nghe “khặc khặc”.

Rồi thần trí cuối cùng cũng minh mẫn trở lại, gã tự biết thân rơi vào cảnh ngộ này, chắc chắn chẳng còn đường sống, lại sợ bị cá sấu lôi xuống đầm lầy, phải chịu cái đau đớn do bị xé xác nuốt chửng, bèn tự mình kết liễu cuộc đời.

Gã sờ cuộn thuốc nổ mang theo bên mình, rồi giật mạnh dây dẫn lửa.

Cùng với tiếng nổ lớn vang khắp đầm lầy là xương thịt máu me bay ra tứ phía.

Tư Mã Khôi vội vàng tránh qua một bên, tuy anh từng chứng kiến tận mắt vô số cái chết trên chiến trường Miến Điện, nhưng nhìn cảnh tượng này, anh vẫn thấy bàng hoàng sững sờ, lòng cảm nhận sâu sắc sự bi thảm của thế gian, dường như cũng chỉ đến thế là cùng.

Anh ngẩng đầu lên nhìn, thấy phía trước pháo tín hiệu vụt lóe sáng.

Thì ra La Đại Hải cõng Tuyệt bị thương ở đầu, gấp gáp chạy theo Ngọc Phi Yến vào đồng cỏ sâu, nên không hề biết biến cố xảy ra phía sau.

Mãi cho đến khi nghe thấy tiếng nổ do gã Gấu trắng tự kết liễu đời mình, mới biết có chuyện chẳng lành, anh liền bước chậm lại, ngoái đầu nghe ngóng.

Tư Mã Khôi tự hỏi:

“Không biết thời gian đã qua bao lâu, dường như vượt cả thời hạn ấn định, sao trái bom địa chấn trên chiếc tiêm kích đến bây giờ vẫn chưa phát nổ?

Nhưng không kịp nghĩ nhiều, anh vội vàng đuổi theo hội La Đại Hải.

Ngọc Phi Yến và La Đại Hải chỉ thấy có một mình anh đi đến, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi nguyên do, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng nổ long trời lở đất, đáy khe núi Dã Nhân sâu vạn trượng đột nhiên xảy ra vụ nổ dữ dội, đúng chẳng khác gì “tinh cầu tương kích, càn khôn vỡ vụn”.

Mạng Y Tế

Nguồn: https://amp.mangyte.vn/truyendoc-me-tong-chi-quoc-dong-khong-day-kinh-hoang-112972.html