Mê Tông Chi Quốc - Máy bay tiêm kích - Mê Tông Chi Quốc

Mê Tông Chi Quốc

Tác giả : Chưa rõ
Chương 8 : Mê Tông Chi Quốc - Máy bay tiêm kích

Hồi 1 :

Núi Dã Nhân Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng kỳ quái, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ ra một cô bé mới mười sáu tuổi như cô nàng thì có nổi tin tức gì đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ.

Thế là hai cậu liên tục hỏi đồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.

Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ:

“Anh họ tớ… từ vùng nông thôn… vừa mới trốn về nhà”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.

Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn gắn một cặp kính cận nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác.

Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, yêu thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán tham gia phong trào Hồng Vệ binh sớm nhất.

Vì Hạ Thiết Đông là người có tấm lòng hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng.

Bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ.

Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Karl Marks, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể thuộc lòng như cháo chảy.

Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.

Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng Vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương.

Trong suốt thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều, hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về “Chân lý cách mạng”.

Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ:

“Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự”.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông đến nỗi bất kể những gì anh nói họ đều tin là điều tất nhiên.

Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.

Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng được hạ màn trên phạm vi toàn quốc, Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải dất Trường Sa, hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau.

Chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông vì nguyên nhân nào đã đó đã cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng.

Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án nhưng tiền đồ sáng lạn của anh ấy coi như hoàn toàn tiêu tan thành mây khói.

Năm ngoái anh bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó thuộc tỉnh Thiểm Bắc.

Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, tất cả ba người bọn họ chạy trốn về lại quê nhà.

Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.

Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo lắng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải mà ngược lại còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ mãi do dự không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được hơn mới đành thổ lộ ra mọi chuyện.

Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói với Hạ Cần:

“Tiểu Hạ! cậu đa nghi quá đấy thôi, anh họ cậu là người như thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể nào trở thành kẻ hàng giặc phản quốc.

Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch?

Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin”.

Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi:

“Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử, chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng”.

Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến chỗ anh Thiết Đông gặp mặt một chuyến.

Chạng vạng chiều ngày hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy đồng chí ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng Vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông vượt sông vào thành phố.

Trong một ngôi nhà dân đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông – người đã chia ly từ nhiều năm trước.

Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Bắc đã khiến cơ thể của anh trở nên vô cùng rắn rỏi.

Nhìn thấy những vị tiểu huynh đệ ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng.

Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải theo phương thức giao thiệp giữa người lớn với nhau.

Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng chế khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe hoe đỏ và nhòe nước.

Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.

Tiếp sau đó rất nhiều thanh niên lũ lượt kéo nhau đến, khiến căn phòng vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ chở nên chật cứng.

Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông.

Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy, họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện.

Tuổi đời của hội mấy người Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông một chút nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.

Hạ Thiết Đông nhìn thấy rất nhiều bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt.

Sau một hồi cảm khái, anh liền kể cho mọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện.

Năm 68, anh bị đẩy đến Diêm Vương câu ở Thiểm Bắc, lúc đầu còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông, nhưng sau khi đến đó mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề hoan nghênh các anh, bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, bất luận có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa thì sản lượng thu hoạch một năm vẫn chỉ có ngần đó.

Đa số thời gian của mọi người dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất.

Điều này cách xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đợi được một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi đây.

Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương đến độ chim chẳng buồn ị *** này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.

Tuy rằng Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng nhưng loại người này cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng, anh ấy cũng giống như đa số thanh niên đương thời lúc nào cũng tràn đầy khí thế và lòng nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi thế liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà.

Anh nói với mọi người kế hoạch mai sau của mình:

“Nơi này không trọng ông thì khác có chỗ trọng ông, nếu chẳng nơi nào trọng ông, thì ông sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha, chi bằng nhân lúc này hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới”.

Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu ý tứ trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh hỏi:

“Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?

” Hạ Thiết Đông giải thích:

“Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa Phát xít đã bị sụp đổ nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị hầm da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ.

Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì nhân dân toàn thế giới chừng đó vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp”.

Đa số mọi người có mặt tại hiện trường nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm:

“Lão Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao.

Hơn nữa, cứ cho bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí.

Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi.

Chắc anh không định để chúng ta mỗi người dắt lưng vài ba quả lựu đạn rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ hả?

” Hạ Thiết Đông lại nói:

“Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ dặt lũ lính con nhà giàu.

Hơn nữa không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ “Tạo phản nội bộ”, chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro trong hậu viện của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ.

Có điều… trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không được thực tế cho lắm.

Nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao?

Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao, đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, thì chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối”.

Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí nhưng lại chẳng thèm biết trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc.

Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng:

“Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?

” La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà.

Hơn nữa khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.

Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán lưng cho đất bán mặt cho trời như vậy cả đời.

Lúc bấy giờ trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất.

Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc.

Bọn họ lại suy ngẫm anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao.

Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.

Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học nhưng từ nhỏ đã được Văn Võ tiên sinh thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi hoàn cảnh gia đình, kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay.

Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ “nghĩa khí”, hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau, hơn nữa rời khỏi Hắc ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân.

Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.

Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.

Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải quả nhiên đi theo mọi người, trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận muộn màng.

Trong lúc tiễn biệt, cô nàng còn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo.

Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì.

Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn đâu phải chuyện đùa, súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên.

Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.

Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly.

Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến.

Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời.

Có điều vất vả lắm mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam, vừa nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết chiến sống mái một phen với quân thù, vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt.

Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất.

Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu.

Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt.

Ngày hôm sau họ trói gô tất cả mọi người lại như trói lợn, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.

Đám người trẻ tuổi ấy sau khi trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được trực tiếp điều phối đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động.

Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó.

Ở Vân Nam có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cộng hòa nhân dân Miến Điện.

Miến Điện Cộng Hòa luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, lập tức phát súng thật cho mình, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng mở toanh mặc kệ ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng.

Tuy rằng ở đó không có máy bay rải bom nhưng hỏa tiễn anti-tank AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có, bọn họ còn thành lập “doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức”.

Đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.

Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm, vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay.

Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa.

Thế là họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nô Giang tham gia quân đội nhân dân của tổ chức Cộng hòa Miến Điện.

Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao lại được tôi luyện nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu, tác chiến vô cùng anh dũng, đương nhiên được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện.

Những chiến hữu này đều tụng xưng anh ấy là Che Guevara của Trung Quốc.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh anh Hạ Thiết Đông, trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót.

Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này.

Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, bộ đội Cộng hòa Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi khống chế càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn.

Cuối cùng tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đại đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.

Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người thì chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích.

Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông dính trọng thương rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.

Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân.

Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc.

Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.

Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho người nào cắt được thủ cấp tên cầm đầu.

Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân Bắc Miến để truy bắt nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi.

Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, nhốt sống trong đó cho đến chết.

Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường.

Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm rập rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời.

Bởi vậy nơi đây được mệnh danh là “địa ngục chốn rừng sâu”.

Thời tiết luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc.

Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái “Phi đầu man” (loại yêu quái thường xuất hiện dưới hình hài con người, ban đêm đầu và cơ thể tách rời nhau, phần đầu đi khắp nơi săn mồi), nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây.

Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng bầy từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà dám cả gan đến gần ao hồ sông suối.

Từ xưa đến nay, chưa một người nào có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chỗ này.

Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì rơi vào tuyệt lộ.

Họ chịu sự kìm kẹp đồng thời từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.

Hồi 2 :

Karaweik Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra, may mà La Đại Hải quên mình lao ra cõng anh quay trở về mới giữ được mạng sống.

Có điều trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫu thuật.

Tuyệt là người duy nhất trong đội du kích am hiểu về y thuật.

Cô là người Hồ Nam, thân hình gầy guộc, tâm địa lương thiện, ưa sạch sẽ, cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát thì cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể.

Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó.

Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm bác sĩ bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.

Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, hiểu biết khá nhiều về tiếng tây, thời Dân Quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp.

Ngoại trừ nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được món kỹ thuật nắn xương.

Nếu có ai bị thương gẫy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay thương thế nặng nhẹ ra làm sao, ví dụ như gẫy mấy chiếc xương, mức độ gẫy nghiêm trọng đến mức nào.

Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, lại dùng băng vải cuốn chặt xung quanh, cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc.

Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục như trước, không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.

Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi.

Năm đó anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mỏng manh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần dùng nhiều đến sức lực, sau đó mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam cũng dẫn cô theo cùng.

Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành “bác sĩ quân y” kiêm “liên lạc viên” cho bộ đội Cộng hòa Miến Điện.

Sau khi xem xét tình hình thương thế của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì có khả năng sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng.

Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu đau nổi không?

Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống khiến khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng không muốn để mọi người lo lắng nên vẫn gắng gượng nói cứng với Tuyệt:

“Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên “hừ” lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho thỏa tay” La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói:

“Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái.

Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!” Tư Mã Khôi nghiến chặt răng rồi nói:

“Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều.

Thời kỳ dấy lên cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng dao từng dao cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể xuống nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê?

Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai.

Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình.

Trong quá trình chịu cực hình, mặc cho máu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể nhưng ánh mắt vẫn nhìn chừng chừng theo động tác dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến nỗi khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay.

Còn Thạch Đạt Khai bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng nhưng từ đầu chí cuối thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn tắm nước nóng dễ chịu.

Chết như thế quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng”.

La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ với anh được, liền lắc đầu bảo:

“Cái thằng này đúng là đồ Hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong – Miệng toàn chữ là chữ”.

Tuyệt nói với Tư Mã Khôi:

“Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cây “Quỷ tu tử” ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!” Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể, trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.

Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra.

Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương.

Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, hoen hoen nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt thi nhau tuôn chảy.

Tư Mã Khôi nhịn đau hỏi:

“Sao Tuyệt lại khóc?

” Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má:

“Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình”.

Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều trùng lòng xuống, rất nhiều anh em bằng hữu phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng lãng mạn, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa.

Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết tông tích của họ lưu lạc chốn nào mà tìm.

La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở:

“Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Điện Cộng hòa đúng là thắng như chẻ tre, dường như sắp đánh đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều”.

Tư Mã Khôi bất lực nói:

“Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa.

Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì”.

Nhân thời khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì.

Hơn nữa tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì sất, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào làm.

Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, tên nào chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ ở phía trước, bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận mà ngay cả buông súng đầu hàng cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa cho một con đường sống.

Nay cả đội lại bị nhốt trong núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu định cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.

Đội du kích vẫn còn một lựa chọn – chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là “xanh mắt tái mào”, chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, thì độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình lình xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra.

Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.

Nghe đồn, tính cho đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất phải kể đến đội sư đoàn tàn dư quân Nhật, chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân, kết quả cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.

Bởi vậy đội du kích Cộng hòa Miến Điện chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân, lùi hàng vạn bước mà nói, cứ cho họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân thì sau đó sẽ ra sao?

Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đều chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết kết quả gì đang chờ đợi ở phía trước.

Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này “lên trời vô lối, xuống đất vô môn”, sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt:

“Mọi người rõ cả rồi chứ?

Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!”.

Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ:

“Hiểu, chúng ta ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi”.

Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ biết rằng mình chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều, cô nói:

“Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng chung suy nghĩ đó.

Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân.

Nếu mệnh ai lớn có thể sống sót thoát ra ngoài thì sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận.

Bất luận nói thế nào, về đến tổ quốc cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng giao cho bộ phận có liên quan thẩm vấn sau đó mới đem đi xử bắn, so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được, lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.

Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào và tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây.

Cái gọi là “phân tán lực lượng đột phá vòng vây” thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng – ai tự lo thân người nấy.

Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra.

Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn.

Tuyệt đại đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng không dám bước chân vào khu rừng rậm.

Nhưng những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoại trừ hội ba người Tư Mã Khôi ra không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi.

Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như chú khỉ, khoác tấm saron rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngố ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi.

Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.

Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa.

Mười hai con giáp Miến Điện khác với mười hai con giáp Trung Quốc, ở đây chỉ có tám con vật lần lượt tương trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư hơi đặc biệt một chút, nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim khổng tước.

Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là “Chủ Nhật”.

Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê Bắc Miến, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi.

Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ:

“Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi”.

Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói:

“Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng”.

Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá “lỳ”, quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ chạy theo mãi một lối cho đến khi trời tối.

Không những thế tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung nghe lơ lớ, ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu muốn nói gì, trong lúc bất lực, anh đành phải dẫn Karaweik theo mình cùng tiến vào núi.

Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì.

Hơn nữa ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều năm không được gặp mặt, tính ra độ tuổi của nó cũng tương đồng với Karaweik.

Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.

Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào.

Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho bạn tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả đi cũng lững tha lững thững.

Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật.

Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục.

Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng.

Có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.

Do sự ảnh hưởng của Phật pháp vô hình trung đã thay đổi họ tự lúc nào không biết, nên người bản địa dần dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết.

Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt.

Karaweik chính là một trong số đó.

“Nhân sinh quan tiêu cực” của họ khiến La Đại Hải vô cùng phản cảm.

Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch, nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, bèn thúc giục họ nhanh lên còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để đi lại cho nhẹ nhàng, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn anh em bộ đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.

Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng “xẹt xẹt” vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì.

Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch.

Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu.

Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.

Hồi 3 :

Đường U Linh bị lãng quên Có lẽ “vận đen” đúng là một vận may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ.

Đúng lúc tiểu phân đội quyết định trốn vào núi Dã Nhân thì Tuyệt nghe được tin tức sau cùng phát ra từ bộ đàm – cơn bão nhiệt đới “Buddha” sắp tràn vào Ấn Độ Dương và dần dần di chuyển về hướng bắc, cơn đầu tiên đang tiếp cận núi Dã Nhân với quy mô cực lớn và cấp độ cực mạnh.

Cơn bão hung bạo như thế này rất hiếm xảy ra trong gần ba mươi năm trở lại đây.

Hội Tư Mã Khôi tham gia chiến đầu nhiều năm ở Miến Điện, không chỉ một lần chứng kiến hậu quả thiên tai ghê gớm do bão nhiệt đới mang lại.

Họ hiểu rất rõ tin tức này có nghĩa là gì.

Trong rừng rậm nguyên sinh, hiểm nguy bủa vây tứ bề, hiểm họa thực sự không phải đến từ cá sấu và mãng xà khổng lồ mà đến từ rắn độc, côn trùng độc.

Hơn nữa, hành quân trong rừng rậm núi sâu là một việc vô cùng gian nan, mỗi bước di chuyển đều phải dùng dao “phạt núi mở đường” mới đi qua được.

Vì những nguyên nhân này nên đường thủy vẫn là con đường tắt nhanh chóng và an toàn nhất.

Nhưng giờ đây sự xâm nhập và tấn công của cơn bão nhiệt đới chắc chắn sẽ kéo theo lũ lớn tràn về, nó không chỉ khiến hội Tư Mã Khôi không thể lợi dụng mạng lưới sông ngòi chằng chịt ngang dọc mà còn khiến những khe rãnh trũng sâu trong lòng núi cũng chịu sự công kích bất ngờ của nước lũ mà trở nên vô cùng nguy hiểm.

Núi Dã Nhân không chỉ là một ngọn núi mà là tên gọi chung của cả dải núi.

Hàng trăm triệu năm trước, đây từng là nơi tập trung giải phóng nguồn năng lượng của lớp vỏ trái đất, tạo thành khu vực nguy hiểm với tần số hoạt động cực kỳ mạnh mẽ.

Nó chính là sản vật từ quá trình vận động tạo sơn cổ đại của dãy Himalaya, phía tây dải núi cuốn quanh con sông Irrawaddy, phía bắc tiếp giáp với vùng núi Gao Li Gong, phía nam là bình nguyên Bago rộng lớn, tạo hình rất giống với người khổng lồ đang ngủ say giấc, nó vắt mình qua ba nước Miến Điện, Lào và Trung Quốc.

Đội du kích Cộng hòa Miến Điện bị nhốt vào vành đai dài hẹp nằm kẹp giữa đầm lầy và rừng rậm nguyên sinh, chỉ đi về hướng bắc rồi xuyên qua núi Dã Nhân mới có thể tiếp cận biên giới Trung Quốc.

Trong tay Tư Mã Khôi lại không có bản đồ, để tránh đi lạc đường, vốn dĩ anh lên kế hoạch men theo con sông lần ngược lên thượng nguồn, nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới mang theo mưa to gió lớn chắc chắn sẽ khiến cơn lũ bất ngờ tràn về với tốc độ và cấp độ kinh hoàng.

Nếu đi ngược dòng, chắc chắn sẽ lãnh chịu kết quả khủng khiếp bị lũ cuốn trôi và nuốt chửng, cho dù tránh đường thủy để chuyển sang đi trên mỏm núi thì cũng phải chịu sự uy hiếp không kém từ nguy cơ sụt lở và dòng chảy bùn đá.

Thế là ngay cả tia hy vọng cuối cùng cũng bị dập tắt, có điều Tư Mã Khôi cũng hiểu rất rõ, bất luận tình thế xoay chuyển ra sao thì cuối cùng họ vẫn đâm ra con đường chết, chỉ là xem đích đến kết thúc ở đâu mà thôi.

Sau khi thầm định lượng trong lòng một hồi, anh cảm thấy được chết càng gần tổ quốc bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn quay lại giục mọi người nhanh chóng nai nịt hành lý chuẩn bị lên đường, đồng thời bảo La Đại Hải cho nổ luôn chiếc máy bộ đàm quân dụng không dây, sau đó cả đoàn không hề do dự một phút, liền đứng dậy khởi hành.

Miến Điện là một quốc gia cổ xưa có truyền thống lịch sự rất lâu đời, thời cận đại từng bị bọn thực dân Anh thống trị gần một trăm năm, trong đại chiến thế giới lần thứ hai, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản lần lượt chạy qua chạy lại nơi đây như đèn kéo quân, đánh nhau loạn xì ngầu, khó khăn lắm mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân và giành được độc lập, ngờ đâu những ngày thái bình chưa hưởng thụ được bao lâu thì đất nước lại rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài suốt nhiều năm.

Thời gian đầu, khi gia thế Miến Điện Cộng hòa còn vững chắc, vật chất dự trữ và vũ khí quân đội vô cùng đầy đủ, ngay cả súng cối, ống hỏa tiễn, xe tăng thiết giáp đều có cả, các loại súng ống đạn dược nhiều vô kể xiết.

Từng thùng từng thùng bom mìn và lựu đạn cầm tay chất đống cao như núi, các loại vũ khí quân dụng kiểu Trung Quốc, kiểu Mỹ, kiểu Anh, kiểu Nhật, kiểu Liên Xô, kiểu Đức muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, thậm chí còn có cả xưởng sản xuất công cụ chiến tranh bản địa “nhãn hiệu Miến Điện”, xưởng này có thể làm nhái súng ngắn và súng trường của Anh.

Nơi đây quả không hổ danh với biệt hiệu bảo tàng trang thiết bị vũ khí “nhãn hiệu đa quốc gia”.

Nhưng Miến Điện Cộng hòa lại rất ít vũ khí đời mới, đại bộ phận đều là đồ lưu cữu từ những thời kỳ chiến tranh trước.

Nhưng kể từ khi chiến dịch Kunlong thảm bại, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện bị gục hẳn không thể đứng dậy nổi nữa, vũ khí đạn dược của bộ đội cũng bắt đầu phải giật gấu vá vai, như giờ đây hội bốn người Tư Mã Khôi ngoại trừ khẩu súng ngắn phòng thân ra thì chỉ còn lại hai khẩu súng trường kiểu cũ do Anh chế tạo, cùng với số lượng đạn dược ít ỏi, bên mình hầu như không còn lương thực và thuốc men.

Cả đoàn tiến vào rừng rậm nguyên sinh trong núi Dã Nhân tứ bề cây cối mênh mông ngút tầm mắt mà không hề có bản đồ và người dẫn đường.

Ngày hôm đó, sau khi vượt qua được hai mỏm núi, địa hình dần dần thấp xuống, hệ thực vật trong rừng sâu cũng dần dần trở nên um tùm rậm rạp hơn, gần như không tìm được chỗ đặt chân xuống, người đi vào trong đó, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu trời, nếu không nhờ vào kim chỉ nam và chiếc la bàn, thì chắc chắn không thể phân biệt được phương hướng.

Cả hội có cảm giác như đang lạc vào một mê cung thiên nhiên âm u và kín mít, bốn người đành phải liên tục dùng dao phát quang cây cỏ xung quanh để mở lối, tốc độ di chuyển vì thế mà chậm đi rất nhiều.

Cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn này có lịch sử tồn tại hơn một trăm hai mươi mấy triệu năm, nó nằm ở giữa khe cốc trũng, xung quanh có nhiều dãy núi cao vây kín, nhịp sống nơi này lúc nào cũng bình ổn, yên ắng.

Hàng trăm khe suối chằng chịt thành một mạng lưới che phủ tứ bề, khiến khí hậu luôn luôn ẩm ướt, oi bức, không có mưa, cũng chẳng có nắng.

Trong cánh rừng bí ẩn này có rất nhiều thực vật nhiệt đới sinh trưởng, chúng muôn màu muôn vẻ, một số loài bạn có thể tưởng tượng ra nhưng đa số chúng bạn không thể tưởng tượng nổi, chủng loại dễ lên đến con số hàng chục triệu, trong phạm vi tầm nhìn của hai con mắt, dường như bạn không thể tìm thấy hai loài thực vật nào hoàn toàn giống nhau.

Cành lá của các cây cổ thụ đan cài vào nhau che kín vòm trời, có những thân cây cao đến tám chín mét, tán lá của nó dày và rộng khiến bầu không khí trong khu rừng trở nên âm u khác thường, từng lớp sương mù nhàn nhạt mịt mùng giăng mắc khắp nơi, thỉnh thoảng lại nhìn thấy những con mãng xà khổng lồ ẩn mình trong cây cổ thụ chờ săn mồi, những loại rắn độc, côn trùng độc chẳng rõ tên gọi quanh quất suốt cả dải rừng, cá sấu luôn bất thình lình xuất hiện trong bụi rậm um tùm hoặc bên bờ sông.

Ở dưới nước, từng đàn nòng nọc thân hình to lớn dị thường bơi lội nhung nhúc thành từng bầy từng đàn, chẳng rõ sau khi biến thành ếch, bọn chúng phải bự đến cỡ nào.

Hội Tư Mã Khôi từng lăn lộn nhiều năm ở chốn sa trường, đảm khí cũng chẳng phải hạng vừa, vậy mà khi ngụp lặn dưới hành lang sinh mệnh màu xanh thẫm này, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác rợn tóc gáy.

Bốn người đều đề cao tinh thần cảnh giác, chẳng phút nào dám lơi lỏng, vừa đi vừa cố gắng né tránh mọi hiểm nguy có khả năng gặp phải.

Có điều, mọi vật trước mắt dường như đều được nhuộm kín bởi một màu xanh quái dị, làm đầu óc họ cũng bị nhiễu loạn, mơ hồ theo.

Nhìn rừng cây cổ thụ kềnh càng đan cài xoắn suýt vào nhau, dễ khiến người ta nảy sinh cảm giác như bàng hoàng choàng tỉnh khỏi cơn u mê, để cảm nhận một cách rõ ràng và sâu sắc, về sự khác biệt to lớn giữa cái vĩnh hằng vô biên của tự nhiên bao la và cái ngắn ngủi mờ mịt của sinh mệnh con người.

Sự cảm khái trấn động đến từ nơi sâu thẳm trong linh hồn này át chế cả chủ thể, nó khiến người ta cảm thấy ngộp thở, đầu óc cũng mụ mị đi ít nhiều.

Cả hội đành phải liên tục dừng bước cẩn thận xác định lại vị trí.

Theo kinh nghiệm từ trước đến nay của Tư Mã Khôi, nếu tiếp tục đi trong tình trạng này sẽ rất dễ bị lạc đường, có lẽ tìm một con suối hoặc một dòng hà lưu nào đó làm vật tham chiếu thì ổn thỏa hơn.

Bọn họ lại tiếp tục tiến sâu thêm một đoạn nữa chợt nhìn thấy một sơn khê rộng rãi khoáng đạt nằm sâu trong rừng rậm, bề ngang lên tới mấy mét, dòng nước chảy lững lờ, trông có vẻ rất êm ả, hiền hòa.

Dòng nước sơn khê trong suốt đến tận đáy, có thể nhìn rõ những viên đá ngũ sắc tròn tròn nằm dưới lòng suối.

Cả con suối ánh lên vẻ thướt tha mềm mại như dải lụa đào, lòng suối thoai thoải, từng vòng sóng nước lấp la lấp lánh như vẩy lân tinh.

Tư Mã Khôi quan sát địa hình cạnh đó rồi nói:

“Nơi nước nông sẽ tương đối an toàn, chúng ta cứ đi men theo con suối mà lên thượng nguồn, đợi khi cơn bão đến thì sẽ trèo lên chỗ cao hơn”.

Đi trong rừng rậm không khí ẩm ướt nóng bức suốt thời gian dài khiến vết thương trên vai anh cứ ngâm ngẩm đau, nhìn lại thì thấy nó đã tấy mủ và bốc mùi hôi thối, nhưng giờ đây lại chẳng có thuốc men gì, cho dù nó có nát mủn ra thì cũng đành mặc kệ.

Nhìn thấy dòng nước suối trong lành, mát lạnh, anh bèn đi đến đó, định bụng sẽ tháo vết thương ra rửa cho sạch sẽ.

Nhưng chưa kịp đến gần con suối thì Karaweik đột nhiên nhào tới, ôm cứng lấy thắt lưng anh, xông ra trước mặt, cố sức lắc đầu, trên mặt còn đọng nguyên vẹn thần sắc sợ hãi kinh hoàng, miệng không ngừng kêu “líu la líu lo” điều gì nghe không rõ.

La Đại Hải tóm lấy Karaweik như tóm một chú khỉ rồi giằng cậu ta ra khỏi người Tư Mã Khôi, anh lớn giọng quát mắng:

“Chủ Nhật! tên tiểu tử này làm gì mà la hét nhặng xị lên thế hử?

Anh thấy chú mày đi theo chỉ tổ làm vướng chân vướng cẳng bọn anh mà thôi, nhân lúc còn chưa muộn, hãy mau quay đầu trở về, nói không chừng bọn lính nhìn thấy chú mày còn ít tuổi, ngay cả lông trên người còn chưa mọc hết, chúng sẽ coi chú mày như quả rắm, đánh một cái là xong”.

Tuyệt đứng bên cạnh nhìn thấy phản ứng của Karaweik, trong lòng thầm nghi chắc có chuyện gì đó không lành, cô vội vàng ngăn Hải ngọng lại, dùng tiếng thổ ngữ hỏi Karaweik đầu cuối sự tình, hai người trao đổi một hồi.

Tuyệt nghe xong, dường như cảm thấy rất khó lý giải, cô nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải:

“Chủ Nhật nói, trong núi Dã Nhân có ma nước, người nào uống phải nước ở đây đều không sống nổi”.

La Đại Hải cho rằng chắc ý của Karaweik là trong nước có độc, nghe xong bèn chẳng buồn để tâm, quay ra nói:

“Toàn nói linh tinh, không nhìn thấy cá đang bơi dưới nước mà vẫn sống ngoe nguẩy kia sao?

” Trái với La Đại Hải, Tư Mã Khôi cũng có vài phần tin lời Karaweik, anh từng học được rất nhiều bản lĩnh từ Văn Võ tiên sinh, ngoại trừ các bí kíp lục lâm ra, còn có bộ “Kim điển mật truyền”, tục gọi “Kim bất hoán”, từ đầu chí cuối đều học bằng khẩu quyết, do sư phụ truyền miệng lại cho học trò, học trò phải nhập tâm ghi nhớ, tuyệt đối không được chép ra giấy dù chỉ một chữ.

“Kim bất hoán” chia ra làm ba chương lần lượt là “Thiên, địa, nhân”.

Thiên, tức chỉ bát quái trong Tiên thiên tốc chưởng, địa là địa lý sông núi, nhân là mọi sự tương tác giữa vật và vật.

Những điều này đều là gốc rễ khởi nghiệp của tổ tiên họ Trương để lại, nội dung vô cùng thâm thúy ảo diệu, phạm vi bao hàm rất rộng lớn, còn được người đời tụng là thiên hạ độc môn.

Vì chịu ảnh hưởng từ di huấn của dòng họ “Thà mất mạng cũng không để lộ nửa chữ Kim” nên từ trước đến nay bí kíp này chỉ truyền thụ cho con trai chứ không truyền thụ cho con gái, chỉ truyền cho người trong gia tộc chứ không truyền cho người ngoài.

Câu cuối cùng trong bộ khẩu quyết đã khái quát tất cả tinh hoa chủ yếu của toàn tập:

“Phải nhìn điểm đầu mà suy đoán điểm cuối, gặp một việc mà hiểu ba việc, lấy nhất biến ứng vạn biến, biết giới hạn chừng mực mà dừng lại, am hiểu thông tỏ mọi trò trên đời, như vậy có thể mặc sức tung hoành, thần quỷ khó lường, lừng danh bốn bể”.

Do vậy người ta có thể từ một chi tiết nhỏ mà suy đoán toàn bộ chân tướng sự việc.

Năm đó, khi Tư Mã Khôi được truyền thụ bí pháp “Kim điển mật truyền” thì tuổi hãy còn nhỏ, khó lòng lĩnh hội hết cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, chỉ gắng học vẹt để cố khắc vào não, mãi cho đến khi anh gặp được Triệu Lão Biệt nơi Hắc ốc hoang phế, thì mới biết bí thuật cổ xưa có cội nguồn từ rất lâu đời này quả thực rất hữu dụng, từ đó mới dần dần bắt đầu mày mò nghiên cứu.

Hơn nữa mấy năm trở lại đây, Tư Mã Khôi cũng chứng kiến rất nhiều chuyện vượt ngoài sức tưởng tượng ở Miến Điện.

Mảnh đất hoang vu, vắng vẻ này bị yểm rất nhiều loại tà pháp như phù chú, bùa ngải hại người, bởi thế thường xảy ra những hiện tượng thần bí khó có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích.

Có câu “Cây có gốc, lời có nguồn”, ở nơi đầm rộng núi sâu này, tất phải tồn tại rất nhiều quái thú, Tư Mã Khôi nghe Karaweik – một người bản địa nói, nước ở trong núi Dã Nhân không được uống, liền lập tức liên tưởng đến thời khắc tan rã của đội quân du kích.

Khi đó hầu hết mọi người thà tự chĩa họng súng vào đầu cũng không dám đến gần khu rừng rậm nguyên sinh nửa bước, bên trong chắc hẳn phải có nguyên nhân của nó, chỉ sợ nguyên nhân đó không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề “nguồn nước”, nhưng rốt cục cội nguồn gốc rễ của nó là gì thì chẳng ai được rõ.

Tư Mã Khôi không hiểu nhiều lắm về núi Dã Nhân bèn nhờ Tuyệt hỏi kỹ Karaweik, bảo cậu ta nói cho thật cụ thể chi tiết.

Nhưng hỏi ra mới hay, ngay cả Karaweik cũng ù ù cạc cạc, chỉ nghe người Bắc Miến tương truyền từ xưa, nói cánh rừng bí ẩn trong lòng núi sâu có sương mù bủa vây, đó là vùng đất vô cùng hung hiểm, có đi mà không có về, nó khiến những người bỏ mạng ở đây đã không thể đầu thai luân hồi, lại không được trở thành Phật, thậm chí còn chẳng thể xuống nổi âm tào địa phủ, cái đợi chờ họ chỉ có hư vô vĩnh hằng.

Hàng trăm dòng hà lưu chảy qua hoặc khởi nguồn từ núi Dã Nhân cuối cùng đều đổ về vùng đầm lầy rộng lớn, cho dù nước ở đầm trong xanh đến đâu đi nữa, thì từ trước đến nay cũng chẳng có người nào dám uống.

Bởi vì những sơn khê chảy ra từ sơn cốc, khe núi từ hàng ngàn năm trước đã sớm bị thổ dân yểm bùa, nếu có người chạm vào chắc chắn sẽ bỏ mạng bất thình lình, hơn nữa sau khi chết đi, hồn bay phách lạc.

Chỉ có nước sương đêm còn đọng lại vào buổi sáng sớm hoặc nước tù trong hồ nước chết mới được phép sử dụng.

Tư Mã Khôi cảm thấy thà tin vào những việc không có còn hơn không tin vào những việc có thật, giờ đây chỉ còn cách thật cẩn trọng, mới mong sống lâu thêm vài giờ, nghĩ vậy anh bèn vỗ vỗ vào vai Karaweik tỏ ý đã hiểu ý cậu ta.

Xem ra núi Dã Nhân quả đúng là chốn hung hiểm, ngoại trừ khí hậu khắc nghiệt sắp sửa giáng xuống đầu ra thì ngay cả khe suối bờ sông cũng không thể đến gần được nữa.

Kế sách duy nhất lúc này chỉ là phải đi ở nơi cao, không thể đi ở chỗ thấp, bởi vậy cả đoàn đành tìm đường trên các mỏm núi, Tư Mã Khôi vác súng trường, đang chuẩn bị đứng dậy khởi hành thì lại bị Karaweik níu lại, cậu chỉ tay vào một khe núi ở bên cạnh, miệng nói liên thanh như súng bắn, dường như muốn bảo Tư Mã Khôi nên đi theo hướng ấy.

Miền Bắc Miến Điện có một câu ngạn ngữ dân gian “trong quân đội nhân dân không có nhân dân”.

Sự thực quả đúng như vậy, đội ngũ tác chiến quân đội nhân dân Miến Điện thực ra chẳng có mấy người gốc Miến Điện mà phần đông đều là người Trung Quốc.

Điều này nói ra cũng khá kỳ lạ, tuy nhiên vẫn có một số người bản địa chính gốc, Tư Mã Khôi sống cùng những chiến hữu Miến Điện trong đội du kích lâu ngày, ít nhiều cũng hiểu được một vài câu thổ và tiếng anh thông dụng nhất, lúc nãy dường như nghe thấy Karaweik nhắc đến “con đường” gì đó, đầu óc anh quay mòng khó hiểu:

“Này Chủ Nhật! chú mày nói trong khe núi có đường hả?

không phải đang nói nhăng cuội đấy chứ?

Nơi rừng già núi sâu hiếm dấu chân người qua lại đào đâu ra đường mà đi?

” Tuyệt dịch lại cho Tư Mã Khôi:

“Ý của Chủ Nhật muốn nói…trong khe núi đằng kia có một con đường tên là “Đường U Linh”.

Thông tin này khiến ba người đều cảm thấy rất đỗi mơ hồ, đường U Linh nghĩa là gì?

Nó là con đường cho người đi hay cho ma đi?

Khả năng biểu đạt của Karaweik rất kém, không thể giải thích rõ ý nghĩ của mình, cậu vò đầu bứt tai cuống cả lên, rồi dường như chợt nhớ ra điều gì, cậu bèn dốc ngược túi xách, lật tìm một hồi lâu, cuối cùng cũng lôi được một cuốn nhật ký rách nát, đoạn đưa cho hội Tư Mã Khôi xem.

Tư Mã Khôi đỡ lấy cuốn sách, cảm thấy hình như trong cuốn nhật ký có kẹp một vật gì đó, anh tiện tay lật giở, liền nhìn thấy một chiếc quân hàm đeo vai của bộ quân phục, trên đó thêu hình một chiếc đầu hổ, nền màu xanh thẫm, như để tượng trưng cho rừng rậm nhiệt đới, bên dưới có mấy hàng chữ cái tiếng Anh, nhưng đã bị sờn rách từ lâu, khó có thể phân biệt đó là chữ gì.

Dưới chiếc huy hiệu còn kẹp một bức ảnh đen trắng đã ngả vàng, hình ảnh không rõ nét, có lẽ là bức ảnh chụp tập thể của cả doanh trại bộ đội hơn mấy trăm người.

Do số người quá đông nên trông toàn cảnh chi chít, không nhìn rõ được từng chi tiết cụ thể.

Giở mấy trang tiếp đọc nội dung được ghi chép bên trong cuốn nhật ký, không ngờ văn tự toàn bộ lại là chữ Hán, Tư Mã Khôi chỉ giở vài trang, càng đọc trong lòng càng cảm thấy kinh ngạc.

Cùng lúc đó, anh cũng suy đoán được câu chuyện mà Karaweik muốn nói

- Ở góc ngọn núi hoang vu hiểm yếu nhất của núi Dã Nhân quả thực tồn tại một con đường vừa thần bí vừa ẩn kín, tên là đường U Linh.

Con đường đó vốn có tên là đường Stilwell, được bộ đội công trình hai nước Trung – Mỹ liên thủ xây dựng nên trong thời kỳ thế chiến thứ hai.

Cuốn nhật ký cũng nhắc đến dải khu vực có liên quan đến đường U Linh, con đường này hệ lụy đến rất nhiều sự kiện đặc biệt thần bí khác.

Hồi 4 :

A – B Thỉnh thoảng Tư Mã Khôi lại có suy nghĩ:

“Vận may, cái thứ ấy đôi lúc lại có vài phần giống với tính cách con gái, bạn càng muốn có cô ấy thì cô ấy lại càng tránh xa bạn, đến khi bạn chẳng còn ôm chút vọng tưởng nào nữa, thì cô ấy lại tự mình mò đến tìm”.

Tình thế bây giờ vừa vặn ứng với suy nghĩ ấy, sau khi đội du kích Miến Điện Cộng hòa tan rã, những kẻ sống sót hội Tư Mã Khôi quyết định mạo hiểm xuyên qua núi Dã Nhân trở về Trung Quốc, tuy rằng biết chắc con đường họ đang đi là con đường tử thần không có chút cơ may sống sót, nhưng vẫn không thể không gắng hết sức tiến lên phía trước.

Đúng lúc gần như mọi hy vọng đều bị dập tắt thì Karaweik lại chỉ ra một “con đường quân sự” bí ẩn dị thường.

Tư Mã Khôi biết việc này liên quan rất hệ trọng đến nhiều việc khác nên không dám nhẹ dạ tin tưởng, mà nhờ Tuyệt hỏi lại Karaweik xem cuốn nhật ký và chiếc huy hiệu hình đầu hổ xuất xứ từ đâu.

Còn anh và La Đại Hải hai người cắm cúi đọc tiếp cuốn nhật ký để xem có thể tìm thấy đáp án từ đó không.

Khoảng hơn nửa tiếng sau, Tư Mã Khôi cuối cùng cũng hiểu rõ mọi mạch nguồn sự việc.

Thì ra trong lòng núi Dã Nhân che giấu một con đường chiến lược.

Các tư liệu lịch sử gọi nó là đường Stilwell.

Con đường Stilwell kéo dài từ vùng Đông Bắc Ấn Độ ngang qua Miến Điện tới tận vùng Tây Nam Trung Quốc.

Con đường được Mỹ và Trung Quốc liên thủ xây dựng từ Thế chiến II, có tổng chiều dài 1.

726 km, là con đường xuyên rừng, băng qua nhiều núi trong dãy Himalaya, và hơn 100 con sông.

Hầu hết các đoạn đường đều bị rừng che phủ và không thể sử dụng được.

Con đường này đã được các lực lượng Anh và Mỹ sử dụng nhằm cung cấp vũ khí, quân binh cho Trung Quốc để chống Nhật Bản trong Thế chiến II.

Con đường đã được Tưởng Giới Thạch đặt theo tên của chỉ huy quân sự Mỹ “Joseph Warren Stilwell” .

Đây là khu vực có địa hình gồ ghề khúc khuỷu và phức tạp nhất trên trái đất, lớp vỏ địa cầu dường như đến đây thì đột nhiên đội lên vô số nếp gấp, một số nơi có độ cao chênh lệch lên tới ba bốn ngàn mét.

Năm đó có một bức ảnh thời sự chiến tranh nổi tiếng khắp thế giới, tấm hình chụp cảnh một đoàn xe tải Mỹ nối đuôi nhau chạy chầm chậm loanh quanh con đường núi ngoằn nghoèo, con đường đó nhỏ hẹp dị thường, chỉ trong khoảng cách vài cây số ngắn ngủi, liên tiếp xuất hiện mấy chục đoạn cua gấp.

Còn một bức khác thì không nhìn thấy đoàn xe tải, mà chỉ thấy con đường núi quanh co, lượn vòng.

Hai bức ảnh đó đều có chung một phông nền – đó là đoạn đường lừng danh có tên “Con đường hai mươi bốn khúc cua”, nó chính là một phần của tuyến đường Stilwell.

Khi tiến hành xây dựng con đường này, tình hình chiến tranh đang bước vào giai đoạn cao trào, máy bay vận tải của không quân Mỹ viện trợ cho Trung Quốc liên tục đi đi về về con đường nhấp nhô đỉnh núi, nhưng dung tích vận tải của máy bay chỉ có hạn, thêm vào đó điều kiện phi hành trên tuyến đường này vô cùng khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra tình trạng máy bay rơi tan xác, tổn thất về người và của quả không thể tính đếm.

Nếu chỉ dựa vào con đường hàng không thì khó lòng có thể viện trợ một cách đầy đủ cho nhu cầu vật chất ngày một phình to khổng lồ của cả chiến trường Trung Quốc, bởi vậy phía quân đội quyết định mở con đường đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh.

Miến Điện lúc đó đang bị quân Nhật chiếm đóng, bộ đội công binh Trung Quốc và Mỹ đã phải trả giá rất đắt để xây dựng con đường này.

Họ đào núi thông đường, bắc cầu qua sông, trong lúc xây dựng cầu đường, cuộc chiến tranh với quân Nhật vẫn diễn ra ngày một khốc liệt hơn, mỗi một mét đường đều được đắp bởi sự hi sinh của mấy mạng người.

Có thể nói, người ta đã dùng tính mạng quý báu của không biết bao nhiêu quân nhân để đổi lấy con đường khúc khuỷu gồ ghề đó.

Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là, con đường Stilwell không phải tuyến đường duy nhất, ngoài hai trục đường chủ đạo mà lúc đó gọi là “trục bắc” và “trục nam” ra thì ở giữa còn có rất nhiều đường nhánh, nguyên nhân chính là do kết cấu địa chất ở đây quá sức phức tạp, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, khiến con đường đang xây dựng dở dang thì bị bỏ dở và chuyển sang nơi khác.

Vì vậy, men theo con đường Stilwell ngoằn nghoèo như rắn lượn xuất hiện rất nhiều đoạn đường rẽ ngang bỏ hoang phế.

Trong đó tuyến đường bị bỏ hoang dài nhất nằm trong lòng núi Dã Nhân thuộc miền Bắc Miến Điện.

Năm đó, bộ đội công binh liên hợp Trung Mỹ đã tìm thấy một con đường xưa cũ hoang tàn từ thời kỳ chiến tranh giữa Anh và Miến Điện còn để lại trong cánh rừng bí ẩn nơi núi sâu.

Từ những năm chủ nghĩa thực dân bành trướng ở phương Tây, người Pháp đặt hệ thống cai trị của mình dọc suốt ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào và gọi chung là Ấn Độ Na Dương.

Còn Miến Điện lúc bấy giờ là thuộc địa của thực dân Anh.

Trong cánh rừng nguyên sinh giữa lòng sơn cốc có một dải đất từ đầu chí cuối không thuộc địa phận của bất kỳ quốc gia nào.

Song phương Anh, Pháp đều bỏ rất nhiều công sức và tiền bạc để xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt với vọng đồ mưu chiếm lấy khu vực này về tay mình, nhưng những khó khăn và nguy hiểm mà họ gặp phải ở núi Dã Nhân quả thực vượt xa khỏi sức tưởng tượng, rất nhiều người phải bỏ mạng nơi đây, bởi vậy cuối cùng công trình vẫn không thể hoàn thành.

Những sự việc khủng khiếp mà mỗi bên gặp phải trong núi Dã Nhân từ trước đến nay đều được giữ bí mật, chẳng bên nào dám tiết lộ công khai.

Trong một ngôi chùa ở Miến Điện ẩn chứa một bức bản đồ cổ với lai lịch bất minh.

Bức bản đồ mô tả về “Tượng Môn” của núi Dã Nhân.

Địa danh có tên Tượng Môn ấy kỳ thực là một sơn cốc rất sâu.

Môi trường tự nhiên trong cốc âm u, ẩm ướt, vô cùng thích hợp để các loại mãng xà khổng lồ ở Miến Điện ẩn thân.

Nghe nói, sơn cốc chính là lãnh địa vùi xương của đàn voi rừng.

Tuy rằng di tích thời xưa đã sớm tiên tan không còn dấu vết nhưng khi xây dựng con đường Stilwell, bộ đội công trình Mỹ đã tham khảo bức bản đồ cổ, rồi căn cứ vào địa hình của dãy núi để sửa chữa con đường thành hình quanh co như lượn sóng, đồng thời hi vọng có thể tận dụng đoạn đường bị bỏ phế mà quân Anh để lại, như vậy vừa có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức, vừa có thể làm đường đi xuyên qua lòng núi.

Tuy nhiên, cuối cùng sự việc không như mong muốn, đoạn đường chìm lặng nơi góc chết khu vực miền núi Bắc Miến này dần dần bị người đời cho vào quên lãng và trở thành “Con đường U Linh” hữu danh vô thực, vất vưởng bao linh hồn oan khuất.

Từ đó trở đi chẳng ai có thể biết đích xác vị trí của nó nữa.

Khi đó, để nhanh chóng đạt được hiệp ước hành động quân sự song phương giữa Trung Quốc và Mỹ nên bộ đội Trung Quốc đã điều phối rất nhiều sĩ quan quân đội trung hạ cấp biết tiếng Anh và từng được huấn luyện qua lớp đào tạo sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ gia nhập quân đội Mỹ.

Trong số đó có thiếu úy Từ, tên đầy đủ là Từ Bình An, ông được đặc phái đến “Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ”, đồng thời theo binh đoàn này gánh vác trọng trách cực kỳ gian khổ, đó là xây dựng cầu đường ở núi Dã Nhân.

Trong một lần chiến đấu với quân Nhật, ông không may bị thương nặng, cả gương mặt cháy bỏng nghiêm trọng, hủy hoại hoàn toàn dung nhan, trên thân thể cũng để lại di chứng tàn phế, sau khi lành vết thương, ông không muốn trở về tổ quốc mà chọn cách lưu lại Bắc Miến, lấy một cô gái bản địa làm vợ.

Từ Bình An chính là cố nội của Karaweik, ông đã ghi chép tất cả những điều mắt thấy tai nghe ở núi Dã Nhân vào cuốn sổ nhật ký.

Có điều ông từ giã cõi đời khá sớm nên hậu duệ đều nhập gia tùy tục, hơn nữa họ lại được sinh ra và lớn lên trong núi sâu nên tuy là Hoa kiều nhưng chẳng ai biết nói tiếng Trung Quốc cả.

Vì Karaweik là người Hoa kiều, hơn nữa lại từng được Hạ Thiết Đông cứu mạng nên cậu luôn tỏ ra gần gũi với người Trung Quốc trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện và thường cảm thấy bản thân có quan hệ họ hàng với những người này.

Tuy cậu không hiểu hội ba người Tư Mã Khôi đang bàn bạc vấn đề gì nhưng không khó nhận ra những người này đang muốn tiến vào núi Dã Nhân hung hiểm không gì sánh nổi.

Ở Miến Điện có một loại hương liệu rất đặc biệt, nó là nguyên liệu xông khói được đào từ gốc cây cổ thụ trong rừng, sau đó đem nghiền dần dần cho đến khi nát vụn mới có thể chế thành.

Núi Dã Nhân có rất nhiều cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, ông Từ Bình An rất thông thạo địa hình của dải núi, hơn thế nữa còn nắm rõ tình hình phân bố từng đoạn đường, bởi vậy ông thường vào núi đào rễ cây chế thành hương liệu hoặc hái thuốc nơi núi cao vực thẳm, để duy trì cuộc sống mưu sinh hàng ngày.

Karaweik từng được người nhà nhiều lần dẫn vào núi hái thuốc, nên khá quen đường, tuy qua nhiều năm, con đường vận tải quân dụng được xây dựng ngày xưa đã sớm bị bùn đất và thảm thực vật che lấp, lại có những đoạn dài bị chôn vùi do lở núi, ngoài Karaweik ra thì những người còn lại khó có thể tìm thấy dấu vết con đường cũ bị che khuất dưới lòng đất.

Ghi chép của ông Từ Bình An, tuy không vẽ bản đồ nhưng thông qua con chữ, ông đã mô tả địa hình núi Dã Nhân rất chi tiết.

Dải núi này chiều đông tây khá rộng nhưng chiều nam bắc lại rất hẹp, địa thế từ Tây Bắc thấp dần xuống Đông Nam.

Địa hình của nó vô cùng gồ ghề, phức tạp, thực vật rậm rạp, um tùm, dưới lòng đất có vô số động huyệt rỗng, sương mù dày đặc, tích tụ từ năm này qua năm khác, chẳng bao giờ tiêu tan.

Con đường Stilwell từ Nam chí Bắc, chạy quanh co khúc khuỷu đến núi Dã Nhân thì chẽ ra thành hình chữ Y, ở giữa là một phân nhánh, bên phải đánh dấu là tuyến đường 719A, bên trái là tuyến đường 206B, được quân Mỹ gọi chung bằng cái tên “Đường U Linh”.

Tuyến đường A cuốn quanh dải đất men theo sườn phải của núi Dã Nhân, tuy đường dài và phải đi vòng vèo nhưng lại tương đối an toàn.

Còn tuyến đường B tận dụng rất nhiều động huyệt tự nhiên, để đâm xuyên qua núi.

Đó là con đường thẳng cách biên giới Trung Quốc ngắn nhất.

Nhưng khu vực mà tuyến đường B của con đường U Linh đi qua lại là khu vực đáng sợ nhất trong cả dải núi Dã Nhân.

Lúc xây dựng đường hầm này, người ta phát hiện hầu hết các khe đá huyệt động trong lòng núi Dã Nhân đều có màn sương dày đặc trắng xóa phun trào, những người đi vào trinh thám không một ai trở về.

Con đường càng tiến vào sâu càng khiến nhiều thành viên của “Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ” mất tích, đến nay vẫn chẳng rõ tông tích.

Về sương mù xuất hiện dưới lòng đất, người ta đặt ra ba giả thuyết:

Thời kỳ thực dân sơ khai, có một nhà thám hiểm người Anh từng nêu quan điểm, đây là “chướng khí”, ông ta suy đoán trong sương có hàm chứa một loại vật chất kịch độc, chỉ cần hít vào liền gây ra tình trạng tim gan tê liệt, nhưng sau đó qua nhiều lần thử nghiệm, giả thuyết thứ nhất hoàn toàn bị loại trừ.

Người ta lại đưa ra một cách giải thích khác, tục truyền ở nơi sâu trong Tượng Môn có một con mãng xà khổng lồ màu đen cư ngụ, người bản địa gọi nó là “Trường xà”, dân gian nhiều kẻ còn thờ phụng nó như thần tiên, nó dài đến hàng mét, có thể phun sương nhả mây, chỉ cần người hoặc gia súc đi ngang gần đó lập tức bị nó hút thẳng vào bụng.

Đồng thời, họ còn đồn đại nước suối chảy ra từ đám mây mù đó đều lọc qua hàng đống xương trắng chất cao như núi, trong đó còn ngấm cả độc dịch do mãng xà tiết ra, bởi vậy tuyệt đối không được uống.

Giả thuyết có mãng xà phun sương nhả mây dưới lòng đất được rất nhiều người tin là thật, có điều nếu bạn hỏi đã ai tận mắt nhìn thấy chưa, thì tất cả đều lắc đầu quầy quậy, nhưng sau đó đều phát thệ với Phật tổ rằng quả thực có người từng nhìn thấy nó ở núi Dã Nhân.

Nói đi nói lại, cuối cùng khó lòng phân biệt nổi thật giả, vì vậy không thể kỳ vọng lấy được tin tức gì đó đáng giá từ miệng người bản địa.

Thậm chí, có người còn nói, các thổ dân thời cổ đại để bảo vệ bí mật được ẩn giấu trong núi Dã Nhân, đã yểm bùa vào nguồn nước, kẻ trúng tà rất khó giải cứu, gần như không còn đường sống.

Tóm lại, nhắc đến ngọn núi Dã Nhân, thực sự chỉ khiến người ta “không lạnh mà sởn gai ốc, nghe nói mà mặt biến sắc”, nó dường như là con ác quỷ có thể nuốt chửng mọi sinh mệnh trên đời.

Bào trùm lên tất cả các truyền thuyết ly kỳ là màn sương mù dày đặc quấn quýt khắp quần thể núi, trông mờ mờ ảo ảo đến quái dị, khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, khó mà nắm bắt.

Tuyến đường B do quân đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng do gặp phải trở ngại quá lớn nên rốt cục đành đứt gánh giữa đường, từ sườn Tây núi Dã Nhân quay về tuyến đường A.

Tuy cuối cùng tuyến đường này không thể thông suốt nhưng vẫn có thể đi vòng qua núi Dã Nhân, dự tính phải mất mười mấy ngày lộ trình.

Karaweik lo lắng hội ba người Tư Mã Khôi có thể bị lạc đường trong rừng rậm nguyên sinh, rồi đi nhầm vào đám sương mù trong núi sâu mà dâng tặng cả tính mạng cho quỷ dữ.

Hơn nữa, trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, quân Nhật từng dùng máy bay ném bom thả một lượng lớn bom mìn từ trên không xuống lòng núi, sau này mưa to gió lớn khiến đất đá và thảm thực vật che phủ phần địa bì bên trên, căn bản không thể nhìn thấy dấu vết của bom mìn.

Karaweik từng theo cố nội vào núi nhiều lần, cậu biết rõ khu vực bom mìn dày đặc chi chít đó, vì thế mới nhất quyết đòi đi theo.

Cậu muốn chỉ cho họ thấy tuyến đường A của con đường U Linh, rồi dẫn mọi người đến gần khu vực tam giác Bắc Miến, nơi đó cách biên giới Trung Quốc chẳng còn bao xa.

Tư Mã Khôi khẽ cảm động trong lòng, thầm nghĩ bao nhiêu năm cách biệt với tin tức nơi quê nhà, chỉ phong thanh được vài thông tin vỉa hè, cũng chẳng rõ tình hình trong nước cụ thể ra sao nữa, nhưng năm đó mấy người bọn ta lẻn trốn khỏi tổ quốc, giờ trở về với tư thế của kẻ bại trận, chẳng có chút anh hùng khí khái nào, cũng không thể viện ra nổi bất kỳ lý do gì để biện hộ cho hành động năm đó.

Thảng hoặc số may giữ được mạng sống mà trở về, nếu không bị quy vào tội danh hàng địch phản quốc thì đã là kỳ tích không dám tham lam mơ tưởng đến.

Chỉ e cho dù không bị xử bắn, thì cũng phải ngồi tù mọt gông.

Còn về cái cậu Karaweik, đương nhiên vì được đưa vào Trung Quốc bất hợp pháp, nên kết cục tốt nhất dành cho cậu bé chẳng qua cũng chỉ là sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ dẫn cậu đến một ngôi chùa, xuất gia làm hòa thượng rồi yên ổn sống hết kiếp này mà thôi.

Nhưng đồng thời anh cũng hiểu, nếu để Karaweik ở lại Miến Điện, hậu quả cậu phải lãnh chịu chắc chắn không tránh khỏi cảnh bị truy bắt và chỉ có con đường chết chờ đợi.

Có điều kết cục này quá tàn khốc, anh quả thực không nỡ nghĩ đến.

Tuyệt thương xót sờ sờ vào cái đầu trọc lốc của Karaweik, giọng nghèn nghẹn:

“Đứa bé này thật tốt bụng!”, cô vừa nói vừa trừng mắt nhìn La Đại Hải, như tỏ ý trách móc anh lúc đầu hay nổi cáu với Karaweik.

Hải ngọng cảm thấy hơi ngượng ngập, anh thường đối xử với mọi người khá thiếu tế nhị, lại không giỏi thể hiện tình cảm thật, thường ngày anh hay lắm lời, nhưng đến lúc cần phải nói thì lại chẳng nói được câu nào tử tế, đành phải giả bộ “quan tâm đến sự trưởng thành của đàn em”, nói tía lia với Karaweik:

“Không ngờ thằng giặc nhỏ này lại là Hoa kiều, hôm nay… mẹ kiếp! cứ coi như La Đại Hải anh đây nợ chú một món”.

Tư Mã Khôi hiểu rất rõ tuy La Đại Hải chỉ nói một câu đơn sơ như vậy nhưng sâu bên trong chứa đựng ý chí sẵn sàng chết thay cho Karaweik một mạng.

Có điều không hiểu sao, sau khi đứng bên cạnh nghe mấy lời này, trong lòng Tư Mã Khôi đột nhiên dội lên cảm giác sợ hãi khó tả, anh linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều.

Anh cũng không hiểu nguyên nhân gì lại khiến mình có dự cảm xấu đến thế, thầm nghĩ hay là cứ ở lại trong rừng rậm nguyên sinh làm người rừng quách cho xong.

Về mà phải chết thì thà cứ trốn trong rừng sâu mai danh ẩn tích chẳng phải tốt hơn sao?

Nhưng Tuyệt và La Đại Hải lại một lòng nhớ cố hương, hai người họ cứ thúc giục Tư Mã Khôi mau lên đường, hiện giờ càng hướng về phía bắc càng an toàn, nếu không cơn bão nhiệt đới “Buddha” mà tới thì có muốn đi cũng chẳng thể đi nổi.

Tư Mã Khôi đành lấy lại tinh thần, đi theo ba người vào khe núi phía tây.

Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách trong rừng rậm núi sâu trông có vẻ khá gần nhưng do địa hình gồ ghề, độ cao chênh lệch rõ rệt, nên khi đi thì lại vô cùng xa xôi và gian nan.

Họ vượt núi băng rừng, mải miết đi cho đến khi hoàng hôn buông xuống mà vẫn chưa đến được chân tuyến đường A của con đường U Linh.

Trên mình bốn người bọn họ chẳng còn lấy nửa gói lương thực.

Đi nhiều giờ trong núi, bụng đói cồn cào, không thể chịu nổi, họ đành bắt hai con rắn cỏ chia nhau ăn tạm, cháo ít vãi nhiều còn biết làm sao.

La Đại Hải vô tình ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện trong lùm cây cổ thụ có một con chim rừng chẳng biết thuộc họ gì.

Con chim đó có bộ lông vũ xanh biếc, rất sặc sỡ, sống động, trông nó khá lớn, tiếng kêu nghe như tiếng người ta gõ tay vào ống trúc rỗng.

Các loài chim trong rừng rậm nguyên sinh nhiều không kể xiết, đại bộ phận đều có hình dáng rất cổ quái, bọn chúng thường tỏ ra không sợ người, có lẽ từ trước đến nay chúng chưa từng nhìn thấy con người, nên cứ cho rằng loài người chẳng khác loài khỉ là mấy, nhìn thấy có người đi qua, chúng cứ ngơ ngác đứng ngẩn tò te nhằm về phía mình mà kêu quang quác.

Hải ngọng thầm nghĩ chỗ này chắc đã vào rất sâu trong núi, cho dù tiếng súng có to hơn nữa thì cũng chẳng lo đánh động kẻ địch.

Anh cố gắng nuốt ngụm nước bọt, giơ khẩu súng do Anh chế tạo, ngắm chuẩn mục tiêu, ba viên đạn tạo thành một đường thẳng.

Tiếng súng vừa vang lên, tiếng chim rơi xuống từ cây cổ thụ cũng vang lên một giây sau đó.

Tiếng súng đồng thời cũng kinh động đến bầy chim cư ngụ trong khu rừng, chúng xáo xác lượn vòng giữa không trung và cất tiếng kêu thê thiết mãi một lúc lâu.

Karaweik và Tuyệt không thể chờ thêm liền chạy về phía trước để nhặt con mồi.

La Đại Hải cũng đắc chí chạy theo, chỉ có Tư Mã Khôi bị thương khá nặng trên vai, đầu óc hỗn loạn, vác mỗi khẩu súng trường nặng chừng bảy tám cân mà đã cảm thấy bước đi không vững, nên đành bị tụt hậu lại phía sau.

Đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy sau người có chút khác lạ, liền lập tức đề cao tinh thần cảnh giác theo phản xạ.

Đang định ngoái đầu lại nhìn xem rốt cục là cái gì thì thấy một khẩu súng lạnh băng kề ngay sau gáy.

Hồi 5 :

Đáy biển Mấy năm ở đội du kích Bắc Miến, dường như ngày nào Tư Mã Khôi cũng phải nếm trải những thời khắc lăn lộn nơi đầu súng mũi dao, nên hiểu sâu sắc luật lệ của rừng già là lấy thịt đè người, mạnh sống yếu chết, chỉ cần tỏ ra nương tay hay do dự một chút chắc chắn sẽ chết mà chẳng có đất chôn thây.

Lúc này, hốt nhiên anh phát hiện có kẻ kề súng ngay sau gáy, không kịp nghĩ ngợi lâu la, liền lập tức thi triển chiêu “Túm đầu quật ngửa”.

Anh đột ngột cúi mạnh người về phía trước, đồng thời vai phải ngửa ra sau phản đòn, không đợi kẻ tấn công lén kịp rơi xuống đất, bèn nhanh chóng kẹp chặt cánh tay cầm súng của đối phương.

Vết thương ở vai trái của Tư Mã Khôi vẫn chưa lành, nên không thể phát huy tối đa sức mạnh, chỉ đành gắng gượng thuận thế thúc một cùi chỏ như trời giáng từ trán xuôi xuống dưới, trúng ngay lá mía trên sống mũi, chỉ nghe tiếng xương mũi gẫy rủn, phát ra một tiếng kêu nhỏ, vụn xương đâm ngược vào trong não, tên đó chẳng kịp ư hử nửa lời đã mềm nhèo nhẹo đổ rạp xuống đất.

Trong lúc cấp bách, Tư Mã Khôi thân thủ nhanh như cắt, ra tay tàn độc gọn gàng, nhưng giờ đây sau khi hạ gục kẻ địch, anh không còn đủ sức thu thế nên cũng đổ nhào xuống theo.

Điều anh lo sợ là chúng không chỉ có một tên, nên vội vàng lăn sang một bên, thuận đà cuộn một vòng giơ tay túm lấy khẩu súng trường SMLE, đang định chạy lên phía trước hô hoán hội La Đại Hải mau tìm chỗ ẩn nấp thì thấy hai mươi mấy tên lính Miến Điện được vũ trang đầy đủ thình lình từ rừng rậm chui ra.

Đám lính mới xuất hiện phần đông đều vận y phục đen, đầu chít khăn rằn, trong tay lăm lăm khẩu súng xung phong MP.

18, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào hội ba người La Đại Hải ở phía trước, xem tình hình này, chỉ cần Tư Mã Khôi dám manh động một chút, họ sẽ lập tức bị bắn tan xác pháo.

Tư Mã Khôi tự biết không thể phản kháng nổi, nên đành buông vũ khí đầu hàng, chịu trận để người ta trói gô thành bó, chặt như nêm giò.

Tư Mã Khôi tự than khổ trong bụng, chẳng ngờ vào đến tận rừng sâu rồi mà vẫn còn gặp kẻ địch, nhưng nhìn trang phục và vũ khí của nhóm người này có vẻ rất hỗn tạp, không giống với quân đội chính phủ.

Nơi ma quỷ hung hiểm dị thường ở núi Dã Nhân này có lẽ chỉ những hạng người chạy tháo mạng như “đội du kích, phạm nhân giết người cướp của hoặc buôn bán thuốc phiện” mới dám lui tới.

Tư Mã Khôi không đoán nổi nhóm người này rốt cục muốn làm gì nhưng trong lòng cũng ngầm hiểu, mình đã giết chết một đồng bọn của đối phương, nay lại rơi vào tay chúng, đừng nói có viễn cảnh tốt đẹp gì chờ đợi phía trước mà ngay cả tính mạng chắc cũng khó có thể bảo toàn.

Đúng lúc này, từ phía sau đám lính vũ trang Miến Điện lại có sáu người nữa bước ra, già có, trẻ có, trong đó còn có một thằng tây cao to lực lưỡng.

Có điều không ngờ kẻ cầm đầu lại lại một cô gái trẻ măng, mặt mày xinh xắn, thanh tú, xem ra cũng chỉ tầm hai mươi mấy tuổi là cùng, đầu đội chiếc mũ chiến đấu có lắp kính chắn gió, trên người mặc bộ trang phục của thợ săn, trông cô ta toát lên vẻ sáng láng, anh dũng hơn người, tinh tường, từng trải.

Đám lính vũ trang Miến Điện lục soát hội bốn người Tư Mã Khôi từ ngoài vào trong rất kỹ càng, rồi đem mấy vật phẩm vụn vặt cùng cuốn nhật ký của Karaweik tất cả giao nộp cho nữ thủ lĩnh xem xét.

Cô ả mặt không biến sắc, cầm từng món lên xem, đợi khi lật đến cuốn nhật ký của ông Từ Bình An, một chút biểu hiện kinh ngạc khẽ thoảng qua gương mặt.

Cô ả lập tức gấp cuốn nhật ký lại, cúi đầu nhìn xác chết của đồng bọn đổ rạp trên mặt đất, rồi đi đến trước mặt Tư Mã Khôi, chăm chú nhìn từ đầu xuống chân như ngầm đánh giá, cuối cùng cũng mở miệng hỏi:

“Các anh là người Trung Quốc hử?

Sao lại mặc quân phục của quân đội nhân dân Miến Điện?

Các anh đến khu rừng già trong vùng núi sâu Bắc Miến này để làm gì?

” Trong mắt Tư Mã Khôi, cô ả trông rất giống với các nhân vật nữ chính bước ra từ phim cổ trang, chẳng biết gốc gác lai lịch ra sao, nhưng nghe đối phương hỏi như thể hoàn toàn không biết việc quân đội nhân dân Miến Điện Cộng hòa có hàng vạn người Trung Quốc, thì liền suy đoán có lẽ họ mới từ nước ngoài đến đây.

Anh lại thấy cô gái phát âm tiếng Trung nghe rất trong và chuẩn, không giống với người lớn lên mới học, lại đoán chắc cô ả là người Trung Quốc, hoặc chí ít cũng từng là người Trung Quốc.

Tư Mã Khôi cũng tự biết người Trung Quốc mà trà trộn giữa đám người Miến Điện, chỉ liếc mắt một cái là nhận ra ngay, nên thấy chẳng cần thiết phải giấu diếm làm chi.

Trong lòng thầm nghĩ:

“Xem chừng việc này quá nửa là có đất xoay chuyển tình thế”, nhưng trước mắt vẫn chưa rõ đám người này và quân đội chính phủ liệu có liên can gì đến nhau không nên không trả lời, mà chỉ gật đầu một cái.

Cô ả mỉm cười ra vẻ thân thiện rồi hỏi:

“Sao anh không dám nói, hay tại sợ quá?

”, đầu óc Tư Mã Khôi không ngừng chuyển động tìm kế thoát thân, nhưng miệng vẫn giảo hoạt mập mờ:

“Tôi quả là có chút vô cùng hoảng sợ”.

Nào ngờ, nghe xong cô ả lập tức đanh sắc mặt, nhìn lạnh băng như nước đá, khẽ hừ lên một tiếng trong cổ họng:

“Đừng giở trò cợt nhả với tôi! Khi nãy thuộc hạ của tôi vừa dùng họng súng kề ngay sau gáy, mà anh vẫn đủ thời gian giơ tay thúc chân giết hắn ngay tức thì, không những thế còn giết vô cùng nhanh gọn tàn nhẫn, chẳng hề do dự một giây.

Anh giết người mà không thèm chớp mắt, có được thân thủ nhanh nhẹn và tố chất tâm lý kiệt xuất như vậy mà còn dám mở miệng kêu lo lắng, hoảng sợ vào lúc này sao?

Tư Mã Khôi dòm ánh mắt sắc như dao của cô ả thì biết cô nàng này không phải tay dễ đối phó, nhưng miệng vẫn lem lẻm:

“Sở dĩ tôi cảm thấy lo lắng là vì cô ở gần tôi quá, nếu cô đứng cách xa tôi khoảng mười bước thì còn tạm được, nhưng nếu vượt quá khoảng cách này là tôi lại cảm thấy không an toàn”.

Cô ả lạnh lùng trợn mắt nhìn Tư Mã Khôi một cái:

“Tôi hỏi gì, tốt nhất anh hãy thành thực mà trả lời.

Chẳng niệm tình các anh là người Trung Quốc, tôi đã không hạ lệnh bắt sống mang về, nếu bây giờ tôi giao nộp các anh cho bọn người Miến Điện, chắc chắn các anh sẽ bị họ mang lột da sống ngay trên cọc.

Tôi nghĩ chắc anh hiểu rõ, bọn họ có nhiều chiêu đày ải thể xác người khác như thế nào”.

Tư Mã Khôi hoàn toàn phớt lờ lời đe dọa của cô ả, hùng hồn nói:

“La Đại Hải tôi xin hoan nghênh các vị đến mần, ai mần tốt sẽ được trọng thưởng”.

La Đại Hải đang bị người ta trói nghiến, ấn nằm xuống đất, từ đầu đến giờ chẳng kêu rên nổi tiếng nào, bây giờ nghe thấy Tư Mã Khôi mạo nhận mình nói nhăng nói cuội, lập tức giãy dụa, ngoác miệng mắng lớn:

“Tiên sư thằng Khôi, sao cậu mất dạy thế hả?

cậu có chú không hử?

Tớ ị vào chú cậu!” Cô ả thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không coi mình ra gì, hơn nữa hai người đều là dạng mồm mép giảo hoạt, hỏi cả ngày mà chẳng thăm dò được nửa câu hữu dụng từ miệng họ, rõ ràng bạn hỏi đông, họ lại đi trả lời tây.

Lửa giận không biết từ đâu bốc lên ngùn ngụt, ý niệm giết người vụt lóe lên trong đầu, cô ả giật mạnh tóc của Tuyệt ngược ra sau, liền sau đó rút “xoẹt” con dao săn ra, ánh thép lạnh băng.

Cô ả dí lưỡi dao xuống dưới cằm Tuyệt, mắt nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi, hằn giọng đe dọa:

“Nếu anh còn nói năng bậy bạ nữa, tôi sẽ cắt đứt cổ họng con ả này”.

Tuyệt không hề sợ sệt, điềm nhiên nói:

“Tôi muốn chết từ lâu rồi, có giỏi thì cứ cho tôi một cái chết thật sảng khoái xem nào!”, sau đó cô liền nhắm mắt chờ đợi, Karaweik ở bên cạnh cuống quýt gào thét, nhưng bị một người Miến Điện đạp ngã vật ra đất, cầm súng chọc mấy cái liên tiếp vào đầu, trong phút chốc, máu chảy lênh láng khắp mặt cậu bé.

La Đại Hải nhìn thấy cảnh tượng ấy, không dằn lòng được liền liên miệng chửi mắng.

Tư Mã Khôi cố nuốt giận vào trong, mặt không biến sắc, tuy bề ngoài vẫn tiếp tục hời hợt ứng khẩu, nhưng trong lòng thì âm thầm tìm cơ hội thoát thân, cướp súng khống chế lại kẻ địch.

Khi đưa mắt nhìn tứ phía, anh đột nhiên phát hiện ngoại trừ hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện ra thì mấy người do cô ả cầm đầu còn cõng theo một thanh hợp kim ở sau lưng.

Tư Mã Khôi nhận ra loại vũ khí này, nó có tên tuổi đàng hoàng, gọi là “Giáo mỏ vịt”, cây giáo rỗng ruột, được làm bằng ngũ kim, thân to bằng quả trứng ngỗng, cán dài bằng vai người, bên trong chứa ba khúc ngầm, có thể kéo dài hoặc thu ngắn, co duỗi tùy ý, phía trước mũi còn có hình đầu thú há miệng, từ trong khe miệng nhả ra mũi giáo giống hình đầu trượng, mũi giáo bằng, dẹt và sắc lẻm, hơi giống với cây thiền trượng ngũ hành mà các tăng nhân du phương vẫn thường sử dụng, nhưng tinh tế và nhanh nhạy hơn nhiều, lại rất tiện mang theo.

Nó chính là công cụ độc môn dùng để phán đoán điều kiện địa chất của Kim Điển tiên sinh khi vẫn còn treo biển hành nghề năm xưa, loại công cụ này có thể đào núi lấy đất, ngay cả tầng nham thạch cứng rắn, dày đến mấy tấc cũng vẫn đào được, không những thế nếu lỡ trong núi hoang rừng thẳm chẳng may gặp phải bất trắc, còn có thể sử dụng như món binh khí phòng thân.

Nghe nói, bọn trộm mộ ở khu vực Lĩnh Nam và Quan Đông trước đây vẫn thường dùng nó để đào mộ huyệt, bật nắp quan tài.

Tư Mã Khôi nhìn không sai vào đâu được, trong lòng bèn sinh nghi:

“Xem ra nhóm người này không phải lính truy sát do quân đội chính phủ phái đến, nhưng từ trước đến nay nước giếng chẳng phạm tới nước sông, vậy hà cớ gì họ cứ nhất định phải tranh chấp với bọn ta nhỉ?

Hơn nữa núi Dã Nhân thần bí khó lường này có thể nói là góc tối nguy hiểm nhất trên thế giới, rốt cục trong núi ẩn chứa những bí mật gì đáng để bọn trộm mộ bất chấp tất cả, mạo hiểm tính mạng tìm đến đây?

” Bên cạnh cô ả còn có một lão già chừng ngoài năm mươi tuổi, thân hình trung bình hơi gầy một chút, dưới cằm còn để một chùm râu dê, đầu trọc lốc, bóng lộn, giống với dáng vẻ của một “học giả”.

Lão ta nhìn thấy không khí lúc này đã căng thẳng đến cực độ, dường như sắp xảy ra nguy cơ tàn sát đẫm máu đến nơi, liền vội vàng chạy ra dàn hòa.

Trước tiên, lão ta giải thích đầu đuôi sự việc cho Tư Mã Khôi nghe, lão tự giới thiệu mình họ Khương, quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, xuất thân là một “nhà thư pháp”, đoạn quay sang giới thiệu cô nàng thủ lĩnh, thì ra cô ả họ Thắng, tên Ngọc, mọi người thường gọi là “Ngọc Phi Yến”.

Khương sư phụ thanh minh bọn họ là đội thám hiểm khảo sát địa lý, muốn vào sâu trong lòng núi Dã Nhân để tìm dấu tích con đường Stilwell năm xưa.

Đầu tiên họ phải bỏ rất nhiều tiền để thuê một đội quân quân phiệt rất có thanh thế ở vùng tam giác Bắc Miến, sau đó mới tìm cơ hội tiến vào núi.

Nhưng khổ nỗi, chẳng ai trong số họ thông thuộc môi trường trong rừng rậm, lại không có người dẫn đường, nên cứ loanh quanh mãi trong núi suốt mười mấy ngày trời mà chẳng có kết quả gì.

Khi nãy đội thám hiểm nghe thấy tiếng súng trong rừng, lập tức tỏa ra tứ phía ẩn trốn, sau đó phát hiện hội mấy người Tư Mã Khôi, trên mình ai nấy đều khoác súng trường, hơn nữa lại có vẻ giống người Hoa, chỉ sợ xảy ra nhầm lẫn tạo thành xung đột không đáng có, nên mới sử dụng hạ sách tấn công lén, kỳ thực chẳng qua họ chỉ muốn sau khi giải trừ vũ khí của đối phương sẽ ngồi xuống thương lượng chính sự, nào ngờ Tư Mã Khôi hạ thủ quá tàn độc, khiến tình hình vượt ra ngoài dự liệu ban đầu, chẳng những hai bên chẳng khống chế được cục diện mà phía họ còn tổn thất một người anh em.

Khương sư phụ là một tay lọc lõi già đời, vừa nhìn là biết loại người như Tư Mã Khôi không thể dùng biện pháp cứng rắn mà chỉ ưa mềm dẻo, nên liền khuyên giải:

“Trông các hạ râu hùm hàm én, rõ ràng là tướng vương hầu, không những thế thân thủ lại vô cùng phi phàm, chắc chắn không phải hạng người chơi không ngồi rỗi, khiến tôi bội phần khâm phục.

Trộm nghĩ hôm nay chúng ta bèo nước tương phùng, trước đây đã chẳng gây thù, thì bây giờ cũng đừng nên kết oán, mất một tên lâu la đâu có đáng gì?

Nhưng chớ vì một việc nhỏ mà làm tổn thương hòa khí.

Chúng tôi chỉ muốn hỏi một việc, cậu có biết chuyện gì liên quan đến con đường U Linh không?

” Nhưng lão đã phỏng đoán nhầm, Tư Mã Khôi là loại người rượu mời không uống, rượu phạt lại càng không, dầu mỡ chi cũng chẳng ưa, làm gì có chuyện anh dễ dàng tin vào mấy lời đường mật khéo léo ấy.

Không đợi Khương sư phụ nói hết câu, anh liền đột ngột mở miệng chen vào:

“Bọn “hối tử” trộm mộ các ông muốn tìm con đường Stilwell trong núi Dã Nhân để làm gì?

Anh suy đoán nhóm người Ngọc Phi Yến rất có khả năng là dân trộm mộ, nhưng không rõ mục đích cụ thể của cô ả, cho nên mới mang câu này ra làm mồi nhử, hỏi xem đối phương có phải là “hối tử” thật hay không.

Lời vừa dứt khỏi miệng, Thắng Ngọc và Khương sư phụ đã trợn mắt ngạc nhiên, không ngờ Tư Mã Khôi lại có thể nhận ra lai lịch của cả bọn, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác kinh ngạc, chẳng nhịn được liền buột miệng hỏi:

“Làm sao cậu biết?

” Tư Mã Khôi quan sát phản ứng của đối phương liền biết tiên liệu của mình hoàn toàn chính xác, bèn dùng ánh mắt hướng về phía cây giáo mỏ vịt mà bọn họ đeo sau lưng, rồi cười nhạt hì hì lên mấy tiếng:

“Võ Đại Lang nuôi Vương Bát – người nào của nấy thôi mà”.

Thắng Ngọc và Khương sư phụ nghe xong, miệng không khép lại nổi, hai người liếc mắt ngầm trao đổi, sau đó Khương sư phụ lại gần cởi trói cho Tư Mã Khôi, nhưng ba người còn lại thì vẫn không được thả.

Bọn họ chỉ mời một mình Tư Mã Khôi đến nói chuyện cụ thể.

Trước mắt, hai bên cùng có rất nhiều chuyện muốn hỏi đối phương, nhưng chẳng ai chịu mở lòng trước, bởi vì hệ lụy để lại rất lớn.

Dường như mọi việc liên quan họ đều là những việc mờ ám trong bóng tối, hơn nữa lại không biết đối phương rốt cục là người như thế nào, nên chẳng ai dám dễ dàng hở miệng nửa câu.

Trong giới lục lâm có quy tắc “Ba nói, ba không nói”.

Nếu lỡ gặp phải tình huống như bây giờ có thể vận dụng phương thức quen dùng của các hành bang, hai thủ lĩnh của mỗi bên cùng nhau ngồi xuống mặt đối mặt – “Gạn đáy biển”.

Đây là cách sử dụng ám ngữ trong “Mắt đáy biển giang hồ” của thế giới ngầm để thăm dò, gạn hỏi lẫn nhau.

Sau khi đôi bên đều hiểu rõ gốc rễ ngọn ngành, mới dám đem những việc cơ mật ra bàn bạc chi tiết.

Khương sư phụ tìm thấy một phiến dá dài phủ đầy rêu xanh ở gần đấy, sau đó sai bọn lâu la lấy mười tám chiếc nắp ấm trà quân dụng để thay thế “bát trà”, lại đổ đầy nước lọc vào trong, rồi lần lượt bày bố mười tám chiếc nắp ấm ở phía phải theo trận pháp đáy biển.

Mọi việc xong đâu đấy, lão bèn mời Tư Mã Khôi và Thắng Ngọc ngồi vào hai phía đối diện của phiến đá.

Thắng Ngọc là chủ, lẽ đương nhiên phải mở màn trước, cô ả đẩy hai chiếc nắp trong thế trận ra phía trước, tay trái giơ ba ngón nhè nhẹ ấn vào một nắp, tay phải lại xòe ra bốn ngón chỉ chiếc nắp còn lại, nhếch mép cười:

“Hành bang các phái, lấy nghĩa khí làm trọng, tam nhất bất nhị, lá rễ như nhau.

Tư Mã huynh, mời anh uống trà trước”.

Vết thương trên vai Tư Mã Khôi lại ngâm ngẩm đau, trong đầu dường như có hàng ngàn con bọ đang bò ngọ ngoạy, nhưng việc đã đến cơ sự này cũng đành đâm lao thì phải theo lao, anh vắt kiệt sức lấy lại tinh thần, nhìn hai chiếc nắp ấm bên trái và bên phải, biết rằng nếu tùy tiện uống sẽ bị đối phương đánh giá mình là kẻ ngoại đạo không hiểu phép tắc.

Nghĩ vậy, anh liền lắc đầu nói:

“Tại hạ đã không phải tam lão gia, cũng chẳng phải tứ thiếu gia, đâu dám mạo muội trước mặt quý lão gia”.

Thắng Ngọc thấy anh am hiểu luật lệ, liền nhè nhẹ gật đầu, rút hai chén trà về, rồi bày lại thế trận “Nhất tự trường xà”, xếp mười tám chiếc nắp thành một đường dài ngoằn nghoèo như rắn lượn, đoạn gạn hỏi:

“Xin hỏi huynh đài, thế trận treo biển gì, trên biển viết chữ gì?

” Tư Mã Khôi biết Thắng Ngọc đang muốn hỏi lai lịch và xuất thân của mình, bèn trả lời:

“Ở nhà chẳng dám cãi cha, ra ngoài chẳng dám cãi thầy, quý lão đại đã hỏi, thật chẳng dám giấu.

Thế trận treo biển chữ, trên biển viết chữ đổ biển dốc sông, tại hạ họ Tây, đầu đội bảy mươi mốt, lưng cõng bảy mươi hai, chân giẫm bảy mươi ba”.

Thắng Ngọc vừa nghe liền hiểu ngay, thì ra Tư Mã Khôi là truyền nhân của Kim Điển tiên sinh, nhưng thấy đối phương tuổi đời còn trẻ, khó lòng tin ngay được, nên lại tiếp tục dò hỏi xem bản lĩnh của anh lớn cỡ nào, được truyền thụ những bí kíp gì.

Nghĩ vậy, cô ả bèn hắng giọng:

“Tại hạ còn muốn thỉnh giáo huynh đài, trên người mang theo hàng gì?

” Tư Mã Khôi trả lời:

“Trên người chẳng có hàng gì đặc biệt, chỉ mang theo nửa bộ “Kinh Kim Cương” lừng danh năm hồ bốn bể, nhưng tại hạ chỉ là chân trong chân ngoài, nếu có chỗ nói không đúng, chỉ mong lão thiếu gia bỏ quá cho”.

Anh nói xong, trong bụng thầm nghĩ:

“Làm gì có chuyện hỏi tôi mãi thế, tôi cũng phải hỏi cô mới được”, đoạn liền thay đổi thế trận chén trà đáy biển ban đầu thành thế trận “Nhị long xuất thủy”, xếp mười tám chiếc nắp thành hai hàng, mỗi hàng chín chiếc song song nhau, rồi quay sang gạn hỏi Thắng Ngọc:

“Dám hỏi quý lão đại, trong tay có bao nhiêu thuyền?

Vì khi nãy Tư Mã Khôi đã biết hội Thắng Ngọc là dân trộm mộ, cho nên cứ trực tiếp hỏi thẳng cô ả xem rốt cục đã tìm thấy bao nhiêu minh khí được tùy táng trong mộ cổ.

Thắng Ngọc cũng không chịu lép vế, liền đáp:

“Hỏi hay lắm, trong tay tại hạ thuyền không nhiều cũng chẳng ít, chỉ có khoảng chín ngàn chín trăm chín mươi chín chiếc”.

Nói một cách tóm tắt, ý của cô ả là:

“Quá nhiều, chẳng thể nhớ nổi”.

Tư Mã Khôi thấy thủ đoạn của cô ả lợi hại, không mấy đáng tin nên hỏi tiếp:

“Trên thuyền treo cờ hiệu gì?

Sở dĩ anh hỏi vậy vì bọn “Hối tử” trộm mộ trong dân gian, thủ pháp không giống nhau, do chịu sự hạn chế của nhân tố môi trường địa lý và kinh nghiệm kỹ thuật nên đa số đều phân khu vực để hành sự, dân Hà Nam không xâm phạm đến lãnh địa của dân Thiểm Tây, dân Quan Ngoại không vào Quan Nội.

Câu hỏi khi nãy của Tư Mã Khôi đại ý là:

“Nhóm người các cô thường đào mộ ở khu vực nào?

Sử dụng loại kỹ thuật gì?

” Thắng Ngọc lập tức đối đáp:

“Trên núi treo cờ thắng lợi, dưới núi treo cờ vàng đất, mùng một, hôm rằm treo cờ long phụng, đầu thuyền treo cờ vuông khẩu hiệu lớn, cuối thuyền treo cờ chín mặt uy phong!”.

Trong lời cô ả ẩn chứa hàm ý sâu sa, muốn nói nơi nào cũng đều đi cả.

Những ngôi mộ cổ từ các triều đại xa xưa tuy rằng đâu đâu cũng có nhưng các ngôi mộ chôn ở nơi bình nguyên rộng rãi thường dễ đào dễ lấy nhưng đồ kiếm được lại thường không đáng tiền, cố sống cố chết, tim đập chân run, liều mạng một phen cuối cùng lại lấy được mấy thứ dưa chẳng ra dưa, táo chẳng ra táo, thật chẳng đáng chút nào.

Ngược lại những ngôi mộ trong núi sâu toàn chôn những bậc đế vương, hầu tướng, minh khí bảo vật muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu, nhưng những ngôi mộ đó địa cung mộ đạo, tường đá nắp sắt, chôn giấu rất nhiều ám khí, cài đặt vô số cơ quan ngầm, kiên cố khó phá, vừa không dễ tìm thấy, lại không dễ khai quật.

Nhưng Thắng Ngọc tự nhận mình là dân trộm mộ cao siêu, mộ thường không chê ít, lăng tẩm vua chúa trong núi sâu cũng không ngại khó, chỉ cần cô ả trúng ý thì chẳng có ngôi mộ nào không thể khai quật.

Tư Mã Khôi nghe mấy lời tự cao tự đại này, quả không thể lĩnh giáo nổi:

“Tôi hỏi trên thuyền cô có bao nhiêu ván?

Mỗi ván đóng bao nhiêu đinh?

Ý anh muốn hỏi:

“Bản lĩnh của cô lớn cỡ nào mà dám khoác lác thế hử?

Cẩn thận gió to bay mất lưỡi đấy!”.

Thần sắc Thắng Ngọc điềm nhiên như không, bình thản trả lời:

“Mỗi thuyền có bảy mươi hai ván, tương tự bảy mươi hai phép địa sát, trên ván có ba mươi sáu đinh, giống như ba mươi sáu phép thiên cang”.

Ý cô ả muốn nói:

“Thuộc hạ của tôi vừa là cao nhân hiểu bí thuật phong thủy lại là chuyên gia tinh thông địa lý, am tường thuốc nổ, dưới vòm trời này chẳng nơi nào chúng tôi không thể kiếm ăn được”.

Tư Mã Khôi cảm thấy khó chịu trong lòng, lạnh lùng hừ một tiếng, lại hỏi:

“Ván có lỗ mà không có đinh là loại ván gì?

Ván có đinh mà không có lỗ lại là loại ván gì?

” Thắng Ngọc đối đáp trơn tru:

“Loại có đinh mà không có lỗ là ván nhảy, loại có lỗ mà không có đinh là ván gió”.

Trả lời xong, cô nàng lập tức quay sang hỏi lại:

“Anh bảo trên trời có bao nhiêu ngôi sao?

” Tư Mã Khôi nghe xong liền không phục, thầm chửi:

“Dựa vào mấy món vặt vãnh nhà cô mà dám hỏi thân thủ của tôi sao?

”, nghĩ vậy anh liền thể hiện thái độ bất cần:

“Sao trên trời, đếm không hết, tiền nhân nói có ba vạn sáu mươi sáu, còn cô có mấy sợi gân trên người?

” Thắng Ngọc thấy ban đầu đối phương còn khá tuân thủ luật lệ, nhưng càng ngày càng trở nên vô phép tắc, không nhịn nổi cơn giận thoáng qua, liền nhướng mày đáp:

“Trên người có bảy sợi gân, cứ việc xẻ thịt lột da mà tìm.

Thế anh có biết một con dao có mấy lỗ không?

” Tư Mã Khôi không thèm khách khí đáp:

“Một dao hai lỗ, cô có mấy quả tim, cho tôi mượn một quả mang ra nhấm rượu chơi!”.

Hồi 6 :

Máy bay tiêm kích Sắc trời càng ngày càng tối mịt, cả dãy núi Dã Nhân dần dần chìm vào màn đêm im lìm như cõi chết.

Đây cũng là thời khắc chìm lắng ngắn ngủi báo hiệu cơn giông bão cuồng nộ sắp ập tới.

Vậy mà không khí đông cứng giữa bốn thành viên còn lại của đội du kích Miến Điện Cộng hòa và nhóm người của Ngọc Phi Yến vẫn ngày một căng thẳng hơn.

Tư Mã Khôi tự biết phe mình đang bị đối phương khống chế, nếu câu nói có chút tỏ ra sợ sệt sẽ lập tức càng bị lấn át hơn, bởi vậy anh không hề nhượng bộ nửa bước trên “bàn đại dương”, ngược lại còn dụng tâm chọn những lời hổ báo khích tướng Thắng Ngọc khiến mặt cô ả biến sắc lúc xanh lúc đỏ.

Khương sư phụ đứng bên cạnh là tay cáo già lọc lõi, bươn trải giang hồ đã nhiều năm, lão nhận thấy bọn họ người tám lạng kẻ nửa cân, chẳng ai chịu nhường ai, càng nói càng khiến không khí trở nên căng thẳng, chỉ còn thiếu nước “đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ” mà thôi.

Thế là lão vội vàng đứng bên cạnh ho lên một tiếng như ngầm cảnh báo câu chuyện của hai người nên chấm dứt ở đây, rồi thay nước trà trong chiếc nắp bày trận.

Theo tiền lệ cổ xưa, lúc này nên dùng “hồng trà đặc” – một loại trà rất đậm đặc, chỉ cần uống một ngụm là sốc lên tận đỉnh đầu, nhưng điều kiện trong rừng nguyên sinh không có hồng trà nên chỉ còn cách thay bằng chén nước lọc khác, rồi bày lại thế trận thành “Tam dương khai thái”, xếp mười tám chiếc nắp thành ba hàng, mỗi hàng sáu chiếc.

Chén trà đáy biển bắt đầu bằng việc tự xưng gia môn với thế trận “Nhất tự trường xà”, sau đó bọn họ thay đổi trận pháp thành “Nhị long xuất thủy” để dò hỏi lẫn nhau, trong “Gạn đáy biển” vẫn còn các thế trận khác như “Tam dương khai thái, tứ môn đấu để, ngũ hổ quần dương, lục đinh lục giáp, thất tinh bắc đẩu, bát quái vạn tượng, cửu tử liên hoàn”, cho đến trận pháp cuối cùng là “thập diện mai phục”.

Đôi bên phải tuân thủ quy tắc theo từng tầng thứ để dò hỏi đối phương, đợi khi hỏi ra gốc rễ, thì mỗi bên sẽ biết rõ đầu đuôi sự tình.

Thông qua cuộc nói chuyện, song phương đều hiểu hết ngọn nguồn của nhau, không có xung đột ghê gớm theo đúng nghĩa, càng không cần lo lắng bị thoát gió, lọt nước, sót mất thông tin.

Câu chuyện của Tư Mã Khôi tương đối đơn giản, anh có thể dõng dạc kể với đối phương mà không cảm thấy tự hổ thẹn với lương tâm, nghĩ lại lúc đầu Tư Mã Khôi tôi một tay quét cả Miến Điện, trăm trận trăm thắng, giết người vô số kể, tôi giậm chân một cái cả dải đất Bắc Miến rung chuyển từng đợt, chẳng qua giờ đây quân đội nhân dân rớt đài, bọn tôi chẳng muốn uống chung dòng nước đục, nên dự định vòng qua núi Dã Nhân, chạy về phía bắc trốn sang biên giới.

Còn hội Ngọc Phi Yến, tổ tiên mấy đời đều hành nghề trộm mộ ở Quan Đông, bọn họ kết bè kết đảng, lấy hiệu là “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn”, cũng vì từng gây ra một vài vụ trọng án vào thời Dân quốc, nên đành chạy đến Nam Dương tránh họa, họ buôn lậu ở gần khu vực eo biển Malacca suốt một thời gian dài, đồng thời câu kết với bọn hải phỉ vớt tàu thuyền thời cổ đại, hoặc là đến vùng biên giới Thái Lan, Campuchia để đào mồ quật mả và tìm kiếm các di tích trong Phật tháp ở các chùa chiền miếu mạo.

Nghề mưu sinh chủ yếu của bọn họ là buôn lậu văn vật cổ.

Trong văn hóa truyền thống dân gian Trung Quốc, từ đầu chí cuối đều tồn tại hai chữ “giang hồ”.

Trên giang hồ có rất nhiều ngành nghề đặc thù, kẻ ăn mày ven đường dọc phố gọi là “Hoa tử”, kẻ trộm mộ gọi là “Hối tử”, ngoài ra còn có “Ngựa vang” nghĩa là dân trộm cướp, “Quải tử” là bọn cướp đường, “Nha tử” là dân đánh cá, “Phi tặc” ám chỉ những kẻ mở khóa phá cửa ăn trộm hàng ngàn hộ, tiên sinh ám chỉ kẻ hành nghề bói toán, mộ sư ám chỉ thầy coi tướng số phong thủy.

Tuy rằng thủ đoạn hành nghề, mưu sinh của mỗi ngành nghề không giống nhau nhưng đều phải thông văn tỏ võ và mang một chút màu sắc mê tín nhất định.

Nếu trong đó có nhân vật am hiểu về ngũ hành bát quái, bí thuật phong thủy mà trình độ văn hóa lại tương đối cao thì kẻ đó sẽ được giới giang hồ vô cùng trọng vọng.

Từ đó có thể luận ra một cách tương đối là “nghề hối tử” chẳng qua chỉ là tên gọi chung dành cho những kẻ trộm mộ dân gian, còn kết cấu thành viên chi tiết thì vô cùng phức tạp.

Sau khi cha của Thắng Ngọc qua đời, cô ả được thừa kế tổ nghiệp, dẫn theo những thành viên cơ bản trong tổ chức cũ lập thành “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” và tự mình làm thủ lĩnh.

Dưới trướng cô ả cũng có mấy trợ thủ đắc lực, ngoài “Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, Mai Đông Thanh” ra thì còn có một tên lưu vong người Liên Xô rất am tường về thuốc nổ, mọi người dành tặng hắn biệt hiệu “Gấu trắng”.

Còn vị Khương sư phụ là tay trộm mộ lõi đời, không những vậy còn là bậc cha chú của Thắng Ngọc, cũng có thể coi lão là thầy cô ả.

Bởi thế Thắng Ngọc vô cùng kính trọng, gọi lão là “lão Khương” và luôn răm rắp nghe lời.

Ngọc Phi Yến từng được hưởng thụ nền giáo dục cao cấp, mấy năm gần đây đã cải tiến hoàn thiện kỹ nghệ gia truyền của tổ tiên lên rất nhiều.

Dưới sự dẫn dắt, lãnh đạo của cô ả, “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” dần dần gây dựng thanh thế, cuối cùng tiếng tăm đã vang dội khắp khu vực phía nam.

Lần này bọn họ mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân là do chịu sự ủy thác của một khách hàng lớn, phải đi đến tận cùng con đường U Linh để tìm kiếm một vật vô cùng quan trọng.

Công việc lần này không phải khai quật mộ cổ mà là “công việc đánh cược mạng sống”, đó là công việc gian khổ mạo hiểm khác thường, có thể mất mạng bất cứ lúc nào.

Sau khi Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói hai bên chẳng có gì liên can đến nhau, nay đường rộng thênh thang, ai đi đường nấy.

Giờ đây cuốn nhật ký cũng rơi vào tay cô, còn muốn gì ở bọn tôi nữa?

Chi bằng nhân lúc còn sớm hãy thả ba người đồng bọn của tôi ra, khi nãy tôi đánh chết một tên thủ hạ của cô, thì chỉ cần một mình tôi ở lại là được, ông đây dám làm dám chịu, muốn chém muốn giết gì, tôi cũng nghe theo hết.

Sau khi nắm rõ được gốc rễ của Tư Mã Khôi, ngữ khí của Thắng Ngọc cũng khách khí, dịu dàng hơn trước nhiều nhưng cô ả vẫn nhất định không chịu thả người, bởi vì lúc “gạn đáy biển” khi nãy, thuộc hạ của cô ả cũng đã thẩm vấn Karaweik – cậu bé mang theo cuốn nhật ký bên mình.

Cậu thiếu niên mới mười mấy tuổi đầu, lại ở vùng núi Bắc Miến thì làm sao có thể là đối thủ của mấy gã giang hồ lõi đời.

Quả nhiên vừa mới hỏi năm câu sáu điều, cậu đã khai tuốt tuột sự tình.

Cuốn nhật ký không mô tả tấm bản đồ chi tiết của con đường U Linh, bây giờ người duy nhất có thể tìm thấy nó, e rằng chỉ có một mình Karaweik.

Cậu bé chính là cơ hội mà ông trời trao tặng cho Ngọc Phi Yến, làm gì có chuyện cô ả chịu bỏ qua.

Bởi thế bất luận thế nào, đoàn thám hiểm cũng nhất định sẽ bắt Karaweik theo cùng để dẫn đường.

Nhưng Ngọc Phi Yến cũng không muốn hành sự tuyệt tình quá đáng.

Lúc nói rõ ý đồ của mình cũng đưa ra hai phương án cho đối phương lựa chọn.

Trước mắt có thể để Tư Mã Khôi lựa chọn, chỉ có hai con đường.

Thứ nhất là để lại Karaweik rồi cả hội rời đi, thứ hai là gia nhập đội thám hiểm và cùng tiến sâu vào núi.

Ngoài ra, Thắng Ngọc cũng hiểu rõ tình cảnh mà hội bốn người Tư Mã Khôi đang phải đối mặt, nên hứa hẹn nếu việc lần này thành công, cô ả sẽ sắp xếp cho bốn người bọn họ rời khỏi Miến Điện, có thể đến Hồng Kông, Thái Lan hoặc thoát hẳn châu Á, cao chạy xa bay, tất cả sẽ do cô ả lo liệu hoàn toàn.

Ngọc Phi Yến cần tăng cường lực lượng gấp, cô ả thấy thân thủ Tư Mã Khôi không tệ, lòng gan dạ, kiến thức cũng hơn người, hơn nữa lại từng là thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, chắc chắn sẽ thông thuộc tình hình trong núi, bèn nảy ý định lôi kéo anh vào đoàn, cô ả đề nghị với giọng vô cùng khẩn thiết.

Tư Mã Khôi liếc mắt nhìn trộm ba người bạn đồng hành bị trói trên cọc, thấy Tuyệt và La Đại Hải khẽ gật đầu, tỏ ý không muốn bỏ rơi Karawei và đồng ý cùng đội thám hiểm vào sâu trong lòng núi Dã Nhân.

Chuyến đi này tuy rằng nguy hiểm vạn phần nhưng cũng chưa hẳn là tuyệt đường sống.

Cả hội đã sớm đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, thì còn nơi nào không dám lao vào nữa?

Thế là Tư Mã Khôi quyết định gật đầu chấp nhận lời thỉnh cầu của Ngọc Phi Yến, đồng ý gia nhập đội thám hiểm.

Hai bên liền thắp hương lập lời thề, thể hiện mãi mãi không bao giờ hối hận.

Sau đó Thắng Ngọc lệnh cho thủ hạ cởi trói cho ba người La Đại Hải, lại cung cấp thuốc men cho Tư Mã Khôi chữa thương.

Cả đoàn hạ trại tại chỗ, đợi sáng mai mới bắt đầu khởi hành.

Tuyệt rất tinh thông y lý, cô nhanh chóng làm sạch mủ trên vai Tư Mã Khôi, sau đó đắp thuốc và băng bó lại như cũ, nỗi lo trong lòng từ đầu đến giờ mới tiêu tan, nếu như không gặp đội thám hiểm trong rừng rậm, vết thương của anh chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng càng ngày càng nghiêm trọng, e rằng chẳng đợi được đến ngày ra khỏi núi Dã Nhân.

Thắng Ngọc thấy thủ pháp xử lý vết thương của Tuyệt nhanh nhẹn, gọn gàng, lại hiểu biết dược tính, có thể sánh ngang với các bác sỹ cao minh chân chính, trong lòng không khỏi ngầm khâm phục, càng cảm thấy mình lôi kéo được bốn người bọn họ nhập hội đúng là trời giúp sức, hi vọng như được thắp sáng trở lại.

Ngược lại, Tư Mã Khôi chẳng thèm bận tâm xem Ngọc Phi Yến nghĩ gì, anh vừa để mặc cho Tuyệt băng bó vết thương vừa cầm lấy mấy túi thức ăn dã chiến mà La Đại Hải và Karaweik vừa mới đưa cho, đút từng miếng to vào miệng, nhai nhồm nhoàm.

Trong hộp thức ăn dã chiến số sáu này, thứ gì cũng có, không chỉ có cà phê, thuốc lá thơm, diêm mà còn có cả sô cô la.

Karaweik đói hoa cả mắt, chẳng quản là gì đều nhặt lên đút cả vào bụng, miệng cậu đầy thức ăn, đầu không ngớt gật gù với Tư Mã Khôi tỏ ý đồ ăn rất ngon.

Tư Mã Khôi lại cảm thấy loại thức ăn này thật khó nuốt, liền lắc đầu:

“Chủ Nhật! tên tiểu tử này chẳng ra dáng nam nhi gì cả, đồ ăn nhai đi nhai lại chẳng có chút mùi vị nào, ngọt chẳng ra ngọt, mặn chẳng ra mặn, sao cậu có thể ăn ngon như thể đang được thưởng thức sơn hào hải vị thế hử?

” La Đại Hải cũng chung cảm nhận như vậy, anh nhổ đám thức ăn mới nhai nhộm nhoạm được một nửa từ trong miệng ra bàn tay, nhìn nhìn rồi nói:

“Đúng là không khác gì nhai sáp nến, chẳng lẽ đội thám hiểm ngày nào cũng phải ăn thứ này?

” Tư Mã Khôi giải thích, đã là thức ăn dã chiến thì chắc đều để ăn những lúc tác chiến nơi hoang dã, ở đó làm gì có điều kiện, nên phải ăn như thế này là điều có thể lý giải được, hơn nữa nếu phơi khô lương thực thì có thể bảo quản được lâu hơn.

La Đại Hải bấy giờ mới bừng tỉnh ngộ:

“Thì ra là được hong khô, mẹ tiên sư, chẳng trách tớ ăn mà như nhai giấy, có điều họ cũng hong khô quá”.

Nói xong lại đút đám thức ăn vừa nhổ ra tay cho vào miệng nhai lại.

Ngọc Phi Yến trợn tròn mắt ngạc nhiên, không nhịn nổi liền đi đến hỏi:

“Anh tưởng cái thứ các anh đang ăn là gì vậy?

Nó chính là giấy đấy”.

Lúc bấy giờ Tư Mã Khôi và La Đại Hải mới biết mình lấy nhầm, đồ ăn không lấy lại lấy túi giấy ăn có thể tích lớn hơn được bọc kín trong túi đựng thức ăn dã chiến số sáu, rồi cầm lên đút cả vào miệng mà nhai, hai người biết được chân tướng đều tròn mắt há miệng nhưng họ là những kẻ rất cứng đầu, tất nhiên có chết cũng chẳng chịu nhận sai, cùng lắm đã nhầm thì nhầm cho trót.

Họ thanh minh các ông đây đều là người có văn hóa, thường ngày thích ăn sách, vở, giấy, bút, đừng nói hai cuộn giấy nhà cô mà ngay cả cặp rắn trong tranh của Tề Bạch Thạch, bọn ông cũng ăn cả hai cân, vừa nói vừa cố tình đút nốt toàn bộ số giấy ăn trong hộp cơm dã chiến vào miệng nhai nát vụn rồi nuốt xuống bụng, xong đâu đấy mới ăn các thứ khác.

Thắng Ngọc không thèm đôi co với hai người.

Nhân lúc này, cô ả giới thiệu với hội Tư Mã Khôi kết cấu thành viên trong đoàn thám hiểm.

Gọi là thành viên “đội thám hiểm” cho oai, chứ về thực chất, bọn họ vẫn chẳng thoát xác khỏi “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” của tổ chức “Ngựa vang” truyền thống.

Tất cả mọi việc đều do “thủ lĩnh” quyết định, nhưng tâm của kẻ cầm đầu phải ngay, nếu không ngay sẽ bất thành đại sự.

Thứ đến là “nhà học giả”, còn gọi là tiên sinh, đó chính là lão tặc có kinh nghiệm phong phú nhất trong đoàn, lão là tham mưu trưởng, có chức năng quân sư cho nhóm.

Bên dưới còn có mấy huynh đệ như Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, họ đều là tâm phúc đắc lực của Thắng Ngọc.

Ngoài ra còn có hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện làm chân bốc vác, chúng đều là những kẻ cảm tử được chiêu mộ từ lực lượng vũ trang quân phiệt Bắc Miến, vì tiền họ sẵn sàng làm mọi việc.

Hội bốn người Tư Mã Khôi bị đẩy lên đầu “tuyến lửa” làm nhiệm vụ dẫn đường, chịu trách nhiệm giúp đội thám hiểm tìm ra con đường U Linh trong núi Dã Nhân.

Tuy cơn bão nhiệt đới “Buddha” sắp tấn công Bắc Miến đang tràn vào dãy núi với tốc độ kinh khủng, dự tính nội trong hai ngày sẽ cập núi Dã Nhân, nhưng quyết tâm của Thắng Ngọc dường như còn lớn hơn, cho dù phải đối mặt với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, cô ả vẫn sẵn sàng không ngại trả giá đắt để hoàn thành phi vụ làm ăn lần này, bởi cục diện quân sự khu vực Bắc Miến vô cùng bất ổn, nếu đợi cơ hội lần sau mới vào núi thì không biết còn phải đợi đến tháng nào năm nào.

Tư Mã Khôi suy tính Thắng Ngọc và đám lâu la thuộc hạ của cô ả đều là bọn “hối tử” chuyên đào bới khai quật mồ mả, buôn lậu cổ vật, nhưng từ trước đến giờ chưa thấy ai nói trong núi Dã Nhân có cổ mộ, huống hồ có thể mua hẳn một đội quân vũ trang địa phương vào núi, chắc chắn cũng phải chi ra một số tiền không nhỏ, số tiền đó hẳn không phải chỉ đào bới vài ngôi mộ vớ vẩn trong núi là có thể bù đắp được.

Rốt cục ai dám bỏ ra số tiền lớn như thế và họ muốn tìm vật gì?

Tư Mã Khôi rất muốn biết rõ nội tình, liền hỏi Thắng Ngọc tận cùng con đường U Linh ẩn giấu bí mật gì?

Thắng Ngọc lấy một chiếc túi chống thấm, thò tay lôi ra một vật từ bên trong, đó là vài tập văn bản mỏng, ngoài ra còn có một bức ảnh, cô ả nói với hội Tư Mã Khôi:

“Đây chính là mục tiêu duy nhất bọn tôi muốn tìm kiếm”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải chụm đầu nhìn kỹ chiếc máy bay trong bức ảnh, xem địa điểm chụp có vẻ giống với sân bay quân dụng ở một nơi nào đó, hơn nữa tất cả các tấm ảnh đều chụp hình một chiếc máy bay vận tải.

Chiếc máy bay này dáng dấp cổ xưa, hình thù kỳ quái, phần thân và cánh đều khắc biểu tượng rắn độc ngóc đầu đớp mồi, trông rất đặc biệt.

Hai người đều thấy quen mắt, hình như đã từng nhìn thấy nó ở đâu thì phải, xem ra loại máy bay này không phải máy bay hiện đại, chắc là diện phải đưa vào viện bảo tàng quân đội từ đời thủa nào.

Nghĩ đến đây, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đột nhiên nhớ ra những điều mắt thấy tai nghe lúc tác chiến trong núi trước đây, cả hai giật mình thốt lên:

“Đây chẳng phải máy bay tiêm kích vận tải (1) của không quân hoàng gia Anh hay sao?

****** (1) Máy bay tiêm kích:

là loại máy bay do Anh chế tạo, được sử dụng rộng rãi trong thế chiến thứ hai, có hình dạng giống con muỗi, còn có tên tiếng anh là Mosquito plane.

Hồi 7 :

Tháp thông thiên uân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điến từng ở gần Lashio, tấn công chiếm đóng sân bay quân dụng do người Anh xây dựng, trong nhà kho không quân còn bảo lưu rất nhiều chiến đấu cơ kiểu cũ bị hỏng hóc từ những năm trước, trong đó có một chiếc máy bay kiểu dáng giống với chiếc máy bay trong ảnh, hình thù quái dị của nó khiến người ta chỉ nhìn qua một lần là không thể quên được, tàn tích của loại máy bay này rơi xuống lòng núi, bọn họ cũng trông thấy không ít lần.

Bởi thế Tư Mã Khôi và La Đại Hải có thể phân biệt rõ ràng và nhận ra chiếc máy bay có hình thù kỳ quái này.

Có lẽ đó là loại máy bay tiêm kích vận tải do người Anh chế tạo.

Máy bay tiêm kích của không quân Hoàng gia Anh được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, số hiệu và chủng loại rất nhiều, ví dụ như “máy bay tiêm kích chiến đấu, máy bay phản tiêm kích ngư lôi, máy bay tiêm kích ném bom hạng nhẹ, máy bay tiêm kích thám thính, máy bay tiêm kích vận tải” v.

v…Loại hình máy bay này vừa linh hoạt vừa tốc độ, vô cùng thích hợp để phi hành ở những khu vực nhiệt đới khí hậu phức tạp, dễ thay đổi.

Trước đây, hàng loạt máy bay tiêm kích phục dịch không ngớt trên bầu trời Miến Điện, nhưng chủ yếu là loại tiêm kích hạng nhẹ và tiêm kích trinh sát, còn loại vận tải đã được cải tiến như trong ảnh thì không thường nhìn thấy lắm.

Tư Mã Khôi nói với Ngọc Phi Yến, loại máy bay cổ lỗ sĩ này đã sớm rút vào vũ đài lịch sử từ đời thủa nào, vậy mà các cô còn mạo hiểm và sẵn sàng trả giá đắt như vậy để đi tìm, e rằng chẳng phải chỉ vì bản thân chiếc phi cơ.

Chắc chắn bên trong khoang chứa còn cất giấu bảo vật gì vô cùng quan trọng.

Nhưng vì sao nó lại ở trong núi Dã Nhân?

Và vì sao có người không tiếc tiền bạc thuê đội thám hiểm đi tìm kiếm nó?

Trộm nghĩ trong đó chắc chắn phải ẩn chứa một nguyên do bí mật không thể tiết lộ.

Ngọc Phi Yến gật đầu thừa nhận phán đoán của Tư Mã Khôi là đúng, có điều cũng chẳng có nguyên do gì không thể tiết lộ.

Thì ra sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, trước thềm các nước Miến Điện, Ấn Độ v.

v… thoát khỏi ách thống trị của chế độ thuộc địa thực dân Anh, người Anh đã phái không quân đến chuyên trở hàng loạt bảo vật quý hiếm cướp bóc được ở Miến Điện, chuẩn bị đưa ra cảng biển lên thuyền vận chuyển về “Bảo tàng đại đế quốc Anh” ở bản địa.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận chuyển bí mật này, một chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh vì gặp phải thời tiết xấu đã buộc phải đi lệch tuyến đường phi hành, rớt xuống lòng núi Dã Nhân.

Thông qua báo các của các phi hành viên trên chiến đấu cơ đi hộ tống, thông tin cuối cùng họ nhận được từ chiếc tiêm kích vận tải là:

“Chúng tôi bị rơi vào sương mù…”, điểm rơi là một khe cốc lớn trong rừng nguyên sinh, có lẽ do ảnh hưởng của dòng không khí lưu thông trong khe cốc và kết cấu chiếc phi cơ tương đối nhẹ đã khiến nó không bị đâm vào núi rơi tan xác ngay tức thì.

Có điều nơi sâu thẳm trong khe cốc khổng lồ đó sương mù dày đặc, khiến tầm nhìn từ trên không bị cản trở.

Sau khi chiếc tiêm kích rơi vào màn sương bí hiểm mênh mang chẳng bao lâu, lập tức vang lên những tiếng gào thét tuyệt vọng kinh hoàng của các thành viên phi hành đoàn, rồi tất cả rơi vào im lặng và hoàn toàn đoạn tuyệt mọi thông tin với thế giới bên ngoài.

Sau khi thông tin được truyền đến phía quân đội, họ lập tức điều động nhân viên, tổ chức thành các phân đội cứu viện, chia thành nhiều ngả tiến vào núi Dã Nhân tìm kiếm tông tích chiếc máy bay, thậm chí còn không ngại sự ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, phái rất nhiều phi cơ trinh sát tiến hành lùng sục ở tất cả những khu lân cận.

Nhưng những phân đội tìm kiếm cứu nạn tiến vào núi nếu không trở về công cốc vì không tìm thấy đường thì cũng mất tích bất minh sau khi tiến vào khu rừng nguyên sinh.

Chẳng biết sau nhiều năm tìm kiếm, số lượng máy bay và con người đã mất tích trong núi đã lên con số bao nhiêu, hoàn cảnh và lai lịch của họ rất đa dạng phong phú, ngoài những phần tử đầu cơ và các nhà thám hiểm muốn tìm kiếm bảo vật ra, thì còn có vô số kẻ chạy nạn, phạm nhân buôn lậu, thổ phỉ và những binh sĩ các nước đi lạc vào núi Dã Nhân qua nhiều thời kỳ chiến tranh.

Nhưng bất luận là thời kỳ thực dân Anh thống trị hay thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng, tất cả những vụ mất tích xảy ra trong núi Dã Nhân đều bị giới quan chức các nước né tránh không đả động đến, từ trước đến nay cũng không có ghi chép công khai nào tường thuật về quá trình cứu nạn.

Rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy mặt trời và sương mù dày đặc ngàn năm chẳng thể tiêu tán dưới lòng đất, đều trở thành bức bình phong thị giác của thiên nhiên, thêm vào đó môi trường tự nhiên khắc nghiệt đã khiến núi Dã Nhân cách biệt triệt để với thế giới bên ngoài, đến tận bây giờ vẫn chưa một ai có thể sống sót đi ra từ núi sâu.

Chiếc máy bay mất tích không lâu sau thì Miến Điện tuyên bố độc lập, người Anh hoàn toàn rút lui khỏi lãnh thổ đất nước, vụ án quân sự liên quan đến chiếc máy bay mất tích dưới khe cốc lớn trong lòng núi Dã Nhân tưởng như cũng khép lại vĩnh viễn.

Nhưng rất nhiều người lại tâm tâm niệm niệm chẳng thể quên “bí mật” vận tải trong khoang hàng của chiếc phi cơ, đến tận giờ vẫn không hề đứt đoạn công cuộc lùng sục kiếm tìm chiếc tiêm kích bị mất tích khi xưa, “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” của Thắng Ngọc chính là được người ta thuê để đi tìm chiếc máy bay khắc biểu tượng rắn đen và mang “hàng” trong khoang trở về.

Đầu mối trong tay Ngọc Phi Yến ngoại trừ bức ảnh mấy chiếc máy bay vận tải ra, thì chỉ có một vài tin tức tình báo còn sót lại của phân đội cứu nạn không quân Anh năm xưa mà thôi, nhưng chừng đó cũng đủ để đoán biết vị trí mất tích của chiếc tiêm kích, đại khái nằm ở khe cốc khổng lồ nơi trung tâm núi Dã Nhân.

Có điều sương mù dưới lòng đất từ trong khe cốc phun lên mù mịt, càng ngày càng nhiều lên theo năm tháng, gần như che phủ tất cả các khu vực lân cận.

Nếu đội thám hiểm trực tiếp tiến vào khu rừng rậm nguyên sinh bị sương mù bủa vây, sẽ dễ giẫm phải vào vết xe đổ của người đi trước, bởi thế sau khi bàn bạc, Thắng Ngọc và Khương sư phụ quyết định trước tiên cần tìm ra con đường Stilwell do quân Mỹ xây dựng, nghe nói nơi tận cùng của con đường nằm rất gần vành đai ven khe cốc, năm đó đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu muốn xây dựng con đường phía rìa sườn để tránh đám sương mù kỳ quái dưới lòng đất phun trào, nhưng lúc đào đường hầm xuyên núi, cả đoàn lại vô tình khiến đất đá sụt lở, chỗ sụt lở lộ ra một động huyệt, sương khí từ bên trong phun ra dữ dội, những nhân viên đi vào trinh sát đều chết bất thình lình, bởi thế mới buộc phải từ bỏ kế hoạch làm đường thông núi Dã Nhân.

Khổ nỗi, đội thám hiểm lại không có bản đồ, cũng chẳng có người dẫn đường, muốn tìm một con đường bị lãng quên hoang phế mấy chục năm đâu phải chuyện dễ dàng, may mà bọn họ gặp được hội Tư Mã Khôi cùng cậu bé Karaweik.

Tuy Karaweik cũng chưa từng đi vào trục đường 206B của con đường U Linh, nhưng chí ít cậu cũng có kinh nghiệm, biết rốt cục phải đi đâu để tìm nó, đồng thời hiểu cách làm sao để tránh khu vực bom mìn rộng lớn mà nhiều thời kỳ chiến tranh trong lịch sử còn để lại, chỉ cần tìm thấy vị trí đường hầm nơi tận cùng trục đường B, là có thể tìm cách từ chỗ bị sụt lở xuyên qua động huyệt dưới lòng đất, đi vào khe cốc khổng lồ, tìm chiếc máy bay tiềm kích vận tải bị mất tích.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể xong toàn bộ đầu đuôi câu chuyện, liền quay sang nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải:

“Bất kể các anh có tin vào số mệnh hay không, chí ít tôi cũng cho rằng giữa con người với con người luôn tồn tại một loại “lực hấp dẫn” nào đó, hôm nay chúng ta tương ngộ trong núi Dã Nhân, đồng thời cuối cùng lại trở thành bạn đồng hành, e rằng đó cũng là sự an bài của số phận, kể từ nay trở về sau, chúng ta nhất định phải đồng tâm hiệp lực.

Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến không muốn tiết lộ thông tin liên quan đến “hàng” và “khách hàng” nhưng anh cũng biết những vật trong khoang máy bay chắc chắn không phải hạng tầm thường, đã là “phi vụ đánh cược mạng sống” thì không thể dễ dàng thành công, nói không chừng lại rơi vào thảm cảnh bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nghĩ vậy, anh liền cảnh báo Thắng Ngọc:

“Cô đã nói phải tin vào số mệnh, vậy thì việc thành hay bại còn phải xem ý trời, nếu chuyến đi này không thành công, thì cô cũng đừng miễn cưỡng quá”.

Thắng Ngọc khẽ cau đôi mày thanh tú, lời nói có phần trách móc:

“Anh đừng lay động quyết tâm của người khác, chỉ cần chúng ta đồng tâm hiệp lực, thì làm gì có chuyện đại sự không thành?

” Tư Mã Khôi bảo, chẳng phải tôi muốn dội gáo nước lạnh vào cô, nhưng tôi thấy đội ngũ của chúng ta thế này khó mà đồng tâm hiệp lực nổi.

Tôi còn nhớ trước đây, khi còn ở gần khu vực Midzu, từng nghe người ta kể một truyền thuyết tôn giáo phương Tây:

“Đó là vào thời cổ đại xa xưa, con người trên trái đất phải sống một cuộc sống vô cùng khốn khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại chịu sự uy hiếp của lũ lụt, mãnh thú đe dọa sự sinh tồn.

Khi đó loài người nghe đồn trên Thiên quốc cuộc sống rất sung sướng, quanh năm lúc nào cũng ấm áp như mùa xuân, bốn mùa hoa lá đua nhau khoe sắc, tám tiết cỏ xanh tươi non mơn mởn, sản vật vô cùng phong phú, không bao giờ phải lo lắng về chuyện ăn mặc, càng chẳng bao giờ phải chịu đựng sự giày vò của bệnh tật.

Chỉ có điều thiên không xa xôi, độ cao của nó vượt xa tầm tưởng tượng của con người, những người bình thường sống trên mặt đất không có cách gì lên trên đó được.

” Kết quả, mọi người cùng chụm đầu nghĩ kế, rồi quyết định phải bắc một chiếc tháp thông thiên cao vút lên tận trời, như vậy già trẻ gái trai chúng ta đều có thể ở đó và trở thành thần tiên, không cần chịu đựng khổ ải nơi trần thế này nữa.

Thế là con người bắt tay vào thi công, mọi người đồng tâm hiệp lực, nên tiến độ xây dựng vô cùng nhanh chóng.

Nhìn thấy đỉnh tháp cao đến tận chân mây, càng xây lại càng cao hơn, Thiến đế ở Thiên quốc bắt đầu lo lắng, đứng ngồi không yên, bụng thầm nghĩ:

“Trên trời chỉ có một mình ta thoải mái biết bao, bây giờ đám con cháu dưới mặt đất ăn no rửng mỡ, đều muốn lên đây gây sự.

Không được, phải mau mau nghĩ cách”.

Kết quả, Thiên đế cũng nghĩ ra một hạ kế, đó là phân chia con người trên mặt đất thành các dân tộc khác nhau, bắt họ phải nói những ngôn ngữ khác nhau, khiến hai bên không thể tiến hành giao tiếp được nữa.

Biện pháp này phát huy tác dụng tức thì, bất đồng ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa chủng tộc trở thành rào cản lớn khó lòng vượt qua, con người trên mặt đất vì không thể giao tiếp với nhau nên không còn đồng tâm hiệp lực, cùng hướng về một mục tiêu như trước.

Cuối cùng, họ không thể xây dựng hoàn thành “tháp thông thiên”, mãi cho đến tận bây giờ, các bên vẫn không ngừng chỉ trích đối phương, chiến tranh, bạo loạn liên tiếp nổ ra hết lần này đến lần khác.

Ngọc Phi Yến cố gắng kiên nhẫn nghe hết câu chuyện nhăng cuội của Tư Mã Khôi, cuối cùng cau mày hỏi:

“Rốt cục anh muốn ám chỉ điều gì?

” Tư Mã Khôi nói, điều tôi muốn nhắc nhở là, trong đoàn chúng ta, vừa có người Liên Xô, vừa có người Miến Điện, người Campuchia và cả người Trung Quốc nữa, thậm chí còn có cả những người chẳng biết mình thuộc quốc tịch nào, việc giao tiếp giữa các bên đã rất khó khăn thì làm gì dám nói đến việc đồng tâm hiệp lực?

Chúng ta chỉ đơn thuần là “đám quân ô hợp” miễn cưỡng lắp ghép lại trong chốc lát, tuyệt đối không thể thành đại sự.

Bởi vậy tôi thấy tìm chiếc tiêm kích mất tích đã nhiều năm trong núi Dã Nhân không phải việc dễ dàng trong tầm tay, chúng ta chỉ có thể cố gắng hết sức, còn ngộ nhỡ bị thất thủ, thì cô phải đồng ý với tôi, khi bọn cô rút lui, ít nhất phải mang Karaweik theo cùng, đồng thời sắp xếp cho cậu bé rời khỏi Miến Điện.

Thắng Ngọc chẳng cần nghĩ ngợi lập tức bảo Tư Mã Khôi cứ yên tâm, Sơn lâm đội lão thiếu đoàn chẳng phải chưa từng làm công việc đánh cược mạng sống như thế này bao giờ, đừng thấy đội ngũ thành phần tạp chủng, thực ra anh đâu cần phải giao tiếp, giao lưu gì, bởi vì đã có Ngọc Phi Yến tôi là “thủ lĩnh”, tất cả chỉ cần một mình tôi nói là xong.

Tư Mã Khôi chẳng coi mấy lời của cô ả vào đâu, trong lòng thầm nghĩ:

“Ngọc Phi Yến cô há chẳng phải cũng chỉ là thủ lĩnh một đội trộm mộ thôi sao?

Ông đây ở Miến Điện còn chặt đầu không biết bao nhiêu người, nhiều gấp mấy lần số đầu người mà suốt đời cô có thể khai quật trong các ngôi mộ.

Ranh con nhà cô có bản lĩnh gì mà dám chỉ huy ông hử?

” Nhưng anh cũng không muốn đôi co vì việc nhỏ này, nên buông xuôi cho câu chuyện tạm dừng ở đây.

Anh chỉ bảo “Hy vọng được như thế”, rồi chuồn ra chỗ khác cho nhẹ nợ.

Lúc này La Đại Hải nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi:

“Nghe nói trong bảo tàng thực dân Anh đúng là có thu thập sưu tầm rất nhiều văn vật cổ đại, nhưng người bản địa Miến Điện nghèo khổ, vất vả như thế, ngay cả một ngôi nhà cho ra hồn cũng chẳng dựng được, thì hàng hóa trong chiếc tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh có thể tốt đến mức nào được nhỉ?

Tớ thấy quá nửa chắc chỉ là hư danh, bây giờ cơn bão nhiệt đới mang thiên tai sắp tràn về, hội người này mạo hiểm cả tính mạng như thế liệu có đáng không?

” Tư Mã Khôi bảo:

“Đồ Hải ngọng nhà cậu chả hiểu biết gì cả, cậu đừng thấy dân bản địa nghèo khổ mà coi thường, ở đây từng là vương triều cổ đại hưng thịnh hiển hách nhất trong quá khứ, trầm tích lịch sử rất thâm hậu, người bản địa vô cùng sùng bái tín ngưỡng, nên những ngôi chùa lớn danh tiếng đều được xây dựng tường vàng vách ngọc, lộng lẫy huy hoàng.

Hơn nữa, mệnh danh “đất nước hoàng kim, phỉ thúy” cũng không phải hư danh đâu, nói cái khác có thể cậu không hiểu, tớ chỉ lấy một ví dụ thực tế trực quan nhất, cậu có biết nữ hoàng Anh là ai không?

” La Đại Hải bị hỏi như vậy chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, liền vặn lại:

“Xem thường tớ đấy hử?

Tớ còn lạ gì nữ hoàng Anh, ai chẳng biết trước đây Miến Điện là thuộc địa của thực dân Anh, bây giờ tượng bà ta vẫn còn khắp đất nước Miến Điện, chúng ta đánh nhau bao nhiêu năm ở đây, tuy chưa nhìn thấy người thật nhưng tượng điêu khắc thì khối ra đấy, ít nhất cũng chạm mặt đến phát quen, bà ta chẳng phải con dâu tổng thống Anh hay sao?

Có điều chuyện tớ vừa hỏi thì liên quan gì đến bà ta?

” Tư Mã Khôi nói:

“Cậu nhìn tượng điêu khắc thì biết, trên đỉnh vương miện của nữ hoàng Anh có gắn một viên hồng ngọc to như quả trứng ngỗng, màu sắc tươi đỏ như máu, toàn thế giới chỉ độc nhất vô nhị một viên ấy thôi.

Viên ngọc đó được đội thám hiểm tùy quân Anh vô tình đào được ở núi Dã Nhân Bắc Miến trong một trận chiến giữa Anh và Miến Điện, sau đó mang về nước, dâng tặng lên nữ hoàng điện hạ”.

La Đại Hải như sực tỉnh, gật gật đầu:

“Thì ra là vậy, xem ra hàng trong chiếc tiêm kích vận tải chắc chắn không phải hạng trâu bò bình thường, nếu tìm thấy nó thật, thì chúng ta đúng là “chó ngáp phải ruồi” trúng quả lớn rồi còn gì.

Tuyệt nghe ý của La Đại Hải dường như muốn chiếm lấy những đồ vật trong chiếc máy bay mất tích làm của riêng, liền bảo anh đừng có nằm mơ giữa ban ngày, có thể sống sót ra khỏi núi Dã Nhân mới là điều quan trọng, anh chưa nghe nói những đoàn thám hiểm trước đây vào trong núi sâu, chưa ai có thể sống sót mà ra được hay sao?

Nếu chúng ta cũng chẳng thoát nổi thì biết làm thế nào?

La Đại Hải cười lớn:

“Tuyệt đừng dọa tôi, cô không biết chứ, Hải ngọng tôi đây là kẻ cực kỳ nhát gan, chỉ dám buộc lông gà trên bó đuốc thôi” Ba người bàn luận một hồi, ai nấy đều cho rằng chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nhưng nếu quả thực có thể vớt được mạng sống trở về, thì không rõ vận mệnh gì sẽ chờ đợi họ ở phía trước?

Trong lúc ngẫm nghĩ về cái được và cái mất, chỉ cảm thấy tiền đồ thật khó tiên liệu, từng dòng suy nghĩ ùa về, rồi tất cả đều dần dần chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị.

Ngày hôm sau, khi trời còn chưa sáng rõ, cả đoàn đã bị Khương sư phụ gọi dậy, mọi người nai nịt chuẩn bị lên đường, đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, leo lên một mỏm núi, từ trên cao nhìn ra bốn phía xung quanh, giữa những dãy núi dài miên man, phủ mờ sương khói là cả không gian tĩnh lặng như tờ, màn sương sớm vẫn chưa tan hết, dõi mắt ra phía xa, thấy nền trời đỏ au au như máu, đó chính là điềm báo trước của cơn bão nhiệt đới cuồng nộ sắp tiến sát gần.

Khi thời tiết khắc nghiệt mang theo thiên tai tràn về, trong vòng vài ngày liên tiếp, cuồng phong bạo vũ chắc hẳn không thể nào suy yếu, lúc đó lũ lớn sẽ tràn về, đất đá sụt lở cuốn theo dòng nước, thậm chí địa hình của núi Dã Nhân cũng có thể vì nguyên nhân này mà biến dạng, bởi thế thời gian dành cho đội thám hiểm chẳng còn bao lâu, mọi người bắt buộc phải nhanh chóng tìm thấy khe cốc khổng lồ nơi có chiếc máy bay bị mất tích.

Karaweik đi trước dẫn đường, cả đoàn xuyên qua một khe núi, đi vòng tránh mấy bãi mìn, rồi tìm thấy ngã rẽ hình chữ Y ở khúc quanh gần vực thẳm, quân Mỹ gọi nơi này là “nút Kansas”, bên tay trái là tuyến đường A khúc khuỷu vòng vèo, bên tay phải là đường hầm xuyên núi, liên thông trực tiếp đến khu vực nguy hiểm bị mây mù che phủ bủa vây.

Trước đây, Karaweik cũng chỉ đến “nút Kansas” là cùng, tiếp sau đó cả đoàn đành phải tự mò mẫm tìm kiếm tuyến đường B của con đường U Linh.

Tuy con đường bị bỏ hoang nhiều năm, bề mặt đều bị thảm thực vật che phủ hoặc sụt lở, đứt gẫy, con đường sớm đã chẳng còn hình hài, móng đường được xây dựng bằng sự trợ giúp cơ giới hóa giờ bị những lùm cây bụi ngoan cường xâm nhập, rễ cây đâm xuyên qua khe nứt, chúng đan cài nhằng nhịt vào nhau che kín mặt đường, khiến người ta không thể nhận ra diện mạo của nó.

Nhưng chỉ cần nắm vững quy luật lối đi, cũng không khó tìm được di tích con đường bị đất đá và cây cối phủ lấp, từ đó lần dây sờ dưa, việc xác định vị trí của tuyến đường 206B cũng không mấy khó khăn.

Chẳng ngờ con đường U Linh chỉ trông thấy đầu mà chẳng tìm thấy đuôi, tổng chiều dài nửa đoạn đầu áng chừng sáu mươi mét, rộng khoảng năm mét rưỡi, toàn bộ được xây dựng trong lòng núi, nó là một con đường cụt, tất cả có mười tám khúc quanh, nửa đoạn sau của con đường đã bị hồng thủy cuốn sập, chẳng để lại dấu vết nhỏ.

Đội thám hiểu mất vật tham chiếu, trước mắt chỉ thấy một dải vực thăm thẳm nhấp nhô, dài tít tắp trong rừng rậm, vực thẳm chắn ngang lối đi khiến mọi người không có cách gì tiến đến lối ra của con đường hầm, vực sâu chỉ kéo dài chừng mấy chục mét, nhưng mỗi bước trong rừng rậm nguyên sinh đều vô cùng khó khăn, nếu từ từ dò dẫm, e rằng phải mất đứt ba đến năm ngày, may ra mới tìm thấy cổng đường hầm.

Đúng lúc mọi người đang bó tay bất lực thì Karaweik lại tiết lộ một đầu mối, cậu nhớ trước đây lúc cha cậu còn sống, từng nói:

Năm ấy, ông vào rừng hái thuốc, khi đến mép vực gần lối ra con đường hầm, đã tận mắt nhìn thấy một kỳ quan khiến người khác không khỏi bàng hoàng, đó chính là “Rắn thiêng hiện thân” trong truyền thuyết cổ xưa của người Miến Điện, ông bị trấn động đến mức gần như hồn lìa khỏi xác, liền hấp tấp chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng nguyên sinh.

Chẳng ngờ, chân trước vừa xuống núi, thì chân sau mưa lớn đã kéo về, nhấn chìm và hủy hoại nhiều nơi trong núi Dã Nhân.

Nếu ông chỉ cần chậm chân một bước, thì đã sớm bỏ mạng trong núi.

Bởi vậy ông một mực cho rằng “rắn thiêng” đã hiện thân hiển linh ứng cứu, giúp ông đoán biết được điềm báo nguy hiểm, nhờ đó mới tha nổi mạng sống về nhà.

Căn cứ vào truyền thuyết này, có thể suy đoán “rắn thiêng hiện thân” là dấu hiệu đặc thù ở gần đường hầm 206, nhưng trong những ghi chép về quá trình xây dựng con đường của quân đội Mỹ thì không thấy nhắc đến hiện tượng kỳ dị ấy.

Từ đó có thể thấy hiện tượng này không phải bất cứ lúc nào cũng gặp được, hơn nữa mãi cho đến tận giờ vẫn chưa ai hiểu rõ “rắn thiêng hiện thân” rốt cục muốn ám chỉ điều gì?

Chỉ đành tạm thời suy đoán, càng vào những thời điểm khí hậu khắc nghiệt, càng có nhiều khả năng gặp phải kỳ quan độc đáo này.

Dãy núi Dã Nhân sâu hút ở phía Bắc Miến Điện là nơi thâm sơn tuyệt cốc ở tận cùng mạch núi Himalaya, những khu vực nằm dưới mực nước biển phần đa đều bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, bốn phía núi cao vực sâu trùng điệp, hàng trăm khe sông, khe suối chảy qua, khí hậu quanh năm không đổi, ngoại trừ cơn bão nhiệt đới có quy mô lớn mạnh khủng khiếp ra thì trong núi sâu rất ít khi chịu sự công kích của mưa gió sấm chớp, có lẽ mười mấy năm trở lại đây đều không có cơ duyên gặp phải thời tiết khắc nghiệt kích thích dòng hồng thủy trong núi nổi giận cuồn cuộn như thế này.

Mọi người chỉ có thể suy đoán, về truyền thuyết “rắn thiêng hiện thân” đại khái tồn tại hai khả năng.

Khả năng thứ nhất là mượn để chỉ một loại “hiện tượng thiên nhiên” nào đó, bởi vì người Trung Quốc cổ đại cũng từng lấy các con vật đặt tên cho các điềm báo thiên nhiên, có điều từ trước đến nay trong lịch sử chưa hề thấy ghi chép về thuật ngữ “rắn thiêng hiện thân”, thể hệ tôn giáo ở Miến Điện đều được lưu truyền từ Ấn Độ cổ đại, có lẽ chính sự khác biệt tồn tại trong bối cảnh văn hóa đã tạo ra những ám thị mà con người hiện đại khó lòng giải thích.

Khả năng thứ hai có vẻ đúng đắn hơn, trong núi Dã Nhân có rất nhiều loại mãng xà khổng lồ, thậm chí truyền thuyết còn kể về con quái xà dài đến hàng chục mét, nó biết nhả khói trắng mịt mùng, hình thành lớp mây mù dày đặc ngàn năm không thể tiêu tán nơi sâu thẳm trong quần thể núi, che phủ khắp mấy dặm xung quanh, người hoặc gia súc mà tiến vào màn sương mù, sẽ lập tức bị nó làm cho tan chảy rồi nuốt vào bụng.

Còn thuật ngữ “rắn thiêng hiện thân”, nhiều phần để chỉ những con quái xà trốn trong lòng núi bị kinh động vì ảnh hưởng của khí hậu khác thường, nên lũ lượt kéo nhau hiện thân ra khỏi màn sương mù.

Lúc này, khí áp trong núi càng ngày càng xuống thấp, không khí oi nồng dường như sắp cô kết đặc quánh, xung quanh yên ắng tịnh không tiếng động, khiến người ta cảm thấy thắc thỏm bất an đến ngộp thở.

Tư Mã Khôi nói:

“Chắc giông bão và mưa lớn sắp sửa tràn về, nếu không tìm thấy lối ra của đường hầm, thì chúng ta phải lập tức trèo lên chỗ cao ngay”.

Đang định tự mình tìm đường leo lên mỏm núi thì trong khoảnh khắc ngẩng đầu ngước nhìn về sườn núi trọc phía đối diện, đột nhiên thấy một con mãng xà đen xì xì dài khoảng hai ba mươi mét, thân hình mờ ảo như sương khói, ẩn hiện chập chờn, điều lạ lùng nhất là con hắc xà lại treo mình trên vách đá dựng đứng, án binh bất động, trông nó giống như một bức thạch họa thần bí và cổ xưa.

Dán mắt nhìn một hồi lâu, anh phát hiện trên vách vực thẳm rõ ràng hoàn toàn trống trơn, chẳng có vật gì bám víu, làm sao đột nhiên lại xuất hiện cảnh tượng kỳ dị dường vậy?

Tư Mã Khôi còn cho rằng mình bị hoa mắt, liền vội vàng gọi mọi người cùng ngẩng đầu lên dõi, mấy chục cặp mắt đổ dồn về đó kinh ngạc nhìn chằm chằm một hồi lâu, hầu như người nào cũng không dám tin vào mắt mình, bởi vì vật hiện lên trên vách đá đích thực là hình một con hắc xà nằm im lìm bất động, nó vừa không phải bức tranh đá điêu khắc hình con quái xà, vừa không phải sinh vật đã chết.

Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi “rắn thiêng hiện thân” chỉ tồn tại trong truyền thuyết cổ xưa của Miến Điện lại là bức phù họa thần bí đầy sức sống như thế, ly kỳ đến mức khiến người ta khó có thể tin là thật.

Hồi 8 :

Rắn thiêng hiện thân Đúng lúc đoàn thám hiểm bị vực sâu cản đường, trong lúc tưởng chừng sự việc giậm chân tại chỗ thì đột nhiên phát hiện trên vách núi xuất hiện hình thù con hắc xà khổng lồ, dài ngoằn nghoèo cả mấy chục mét.

Trên vách đá phủ đầy rêu xanh và các loại thực vật khác nhau, dưới sự phản chiếu của màu xanh lục đậm, con rắn càng trở nên mờ ảo, quái dị như thể vong hồn u uất.

Vì khoảng cách ở quá xa, nên mọi người cũng không phân biệt rõ nó là rắn hay trăn.

Đám lính vũ trang Miến Điện nhìn thấy cảnh tượng ấy đều kinh hãi quỳ rạp xuống đất, miệng không ngừng lẩm bẩm tụng niệm phật hiệu, hướng về phía vực núi dập đầu liên tiếp.

Ngọc Phi Yến cũng không khỏi kinh ngạc, cô ả cầm ống nhòm, nghé mắt nhìn kỹ, một hồi sau mới bàng hoàng tỉnh ngộ, đoạn nói với mọi người không cần hoảng sợ, bóng đen hình con rắn treo trên vách đá thực ra chẳng phải mãng xà gì hết, chẳng qua chỉ là một bầy kiến đỏ đang di chuyển mà thôi.

Thì ra địa thế núi Dã Nhân là một vòng tròn khép kín, tứ bề núi cao chập trùng nhấp nhô, đa phần đều là sản vật từ “quá trình tạo sơn của dãy Himalaya” thời cổ đại, khí hậu quanh năm ổn định bất biến, gió bão nhiệt đới thông thường khó lòng va chạm ảnh hưởng đến đất này.

Nhưng năm nay, cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương có cường độ mạnh khủng khiếp, mấy chục năm hiếm gặp.

Sự biến đổi khí tượng khắc nghiệt như vậy, từ sau khi được dự báo đến nay, đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo nhân dân các khu vực trên khắp thế giới, theo phân tích của giới khí tượng, vùng núi Dã Nhân Bắc Miến cũng chịu sự công kích mãnh liệt của cơn bão.

Giờ đây, cơn bão nhiệt đới mang mưa lớn sắp tiến đến gần, khiến các con sông con suối vốn hiền hòa nằm im lìm dưới các khe cốc thấp bỗng chốc trở nên hung dữ, dòng hồng thủy cuồn cuộn chảy xiết.

Dường như các sinh vật trong rừng già núi sâu đều phát giác được cái oi bức khác thường của khí hậu, hàng ngàn vạn con kiến đỏ buộc phải di chuyển lên chỗ cao hơn để tránh nguy cơ chẳng may tổ kiến bị lũ quét.

Số lượng kiến đỏ trong rừng rậm nguyên sinh nhiều đến khiếp người, tuy gọi là kiến đỏ nhưng toàn thân nó đen xì xì, chỉ có một chút ở phần đuôi là điểm màu đỏ thậm, con to nhất phải gần bằng ngón tay người, con bé cũng cỡ hạt gạo, chúng lúc nhúc tụ tập thành từng đoàn bò dọc vách đá hướng dần lên trên.

Người ta đứng ở nơi xa nhìn vào tự nhiên thấy chúng chẳng khác nào một con rắn dài.

Có lẽ từ hàng triệu năm trước từng có người tận mắt nhìn thấy hiện tượng tự nhiên thần bí này nên mới lưu lại truyền thuyết ly kỳ khiến người ta khó lòng tin nổi.

Tuy Thắng Ngọc đã nói bóng đen ngoằn nghoèo trên vách đá không phải mãng xà nhưng nhóm người Miến Điện, bao gồm cả Karaweik vẫn không thể lý giải được làm sao kiến đỏ trong rừng rậm lại biết chủ động leo lên chỗ cao tránh mưa bão, nên họ cứ một mực cho rằng rắn thiêng mượn xác bầy kiến để hiện thân, ai nấy mặt vàng như nghệ, miệng không ngớt lầm rầm tụng niệm.

Ngọc Phi Yến giải thích với mọi người, kiến đỏ sinh tồn trong rừng rậm nhiệt đới còn gọi là “kiến vống”, chúng biết nhả ra “chất tín hiệu chỉ đường” khi nhai nuốt thức ăn trên những nơi mà chúng hành quân qua, bởi vậy mỗi lần di chuyển ở khoảng cách xa chúng đều bò theo một tuyến đường nhất định, đợi khi thời tiết ổn định, thì sẽ quay lại đường cũ để trở về đáy vực, bắt tay xây dựng lại chiếc tổ đã bị mưa gió cuốn trôi.

Xem số lượng khổng lồ của đàn kiến đang tụ tập trên vách đá thật khiến người ta khiếp hãi, có thể đoán định nội trong mười mấy dặm xung quanh chắc không còn đàn kiến nào với quy mô vĩ đại như thế.

Đã có người từng tận mắt nhìn thấy kỳ quan sinh vật của giới tự nhiên ở gần cổng đường hầm của con đường U Linh thì đường hầm xuyên núi đó chắc hẳn cũng chỉ ở đâu đây mà thôi.

Thắng Ngọc móc một sợi dây chuyền vàng trong người ra bảo phiên dịch nói với mọi người:

“Ai tìm được lối vào núi, sợi dây chuyền vàng trên tay tôi sẽ thuộc về người đó”.

Tư Mã Khôi vốn còn cho rằng cô ả Ngọc Phi Yến có chiêu thức đặc biệt làm lung lạc lòng người, hóa ra cũng chẳng qua là hạng mang tiền ra nhử mồi câu, không có gì mới mẻ cả.

Có điều, người ta vẫn thường nói:

“Mang tiền trọng thưởng, tất có dũng phu”, mấy người Miến Điện này tuy khiếp sợ núi Dã Nhân đến tận xương tận tủy, nhưng hơn hết bọn chúng là lũ thổ phỉ hung hãn chỉ cần tiền, chẳng cần mạng.

Dưới sự dụ dỗ của cái lợi to lớn trước mắt, ban đầu còn hoảng loạn mất một lúc nhưng sau đó dưới lệnh của thủ lĩnh trong đội, họ lần lượt leo xuống vực sâu tìm kiếm lối ra của con đường hầm.

Đội thám hiểm lùng sục theo hình thức đan rào một hồi, cuối cùng cũng phát hiện cổng đường hầm của con đường U Linh, nhưng phần chóp cổng đã bị sụt lở hoàn toàn, một lượng đất đá lớn sụp xuống chắn kín lối ra, dường như nó bị con người dùng thuốc nổ phá hủy.

Có lẽ quân Mỹ trước khi rút khỏi đường hầm tuyến đường B, muốn phong tỏa vĩnh viễn khu vực nguy hiểm này nên đã tiến hành kích nổ nhiều lần, khiến lối ra hoàn toàn đổ sụp, không thể tiếp tục đi về phía trước được nữa.

Có điều vẫn là đám lính vũ trang Miến Điện giàu kinh nghiệm đã tìm thấy một khe cốc bí ẩn bị thảm thực vật um tùm che phủ, nằm ở mặt bên của vực thẳm nơi lũ kiến vống đang bò.

Trên tầng nham thạch nhẵn nhụi ở cổng vào khe cốc còn lưu giữ những bức tranh đá nguyên thủy mô tả cảnh tượng chết chóc của một bầy voi rừng lớn.

Lòng sơn cốc thâm u, khúc khuỷu, không khí trầm lắng, nặng nề, hai bên mọc đầy cây cổ thụ tán lá rộng rợp trời, đan kết, xen cài vào nhau, khiến mặt trời không thể chiếu sáng khoảng không trên đầu, chỉ có những tia nắng yếu ớt khẽ lọt qua kẽ lá âm u rậm rạp.

Cuốn sổ ghi chép của cố nội Karaweik không chỉ mô tả địa hình trong lòng “Tượng môn” hoàn toàn trùng khớp với bức bản đồ cổ, mà còn ghi chép rất nhiều sự kiện có liên quan.

Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh Anh Miến, từng có một viên thượng úy Anh chỉ huy bộ đội tác chiến ở gần khu vực núi Dã Nhân.

Do quân Anh được trang bị vũ khí đầy đủ, tinh nhuệ nên dễ dàng đánh bại kẻ địch.

Trong quá trình truy sát tàn quân, viên thượng úy đó đã gặp một con voi rừng già nua đang chuẩn bị lên đường gặp tổ tiên ở rừng rậm nguyên sinh.

Một binh sĩ người Ấn Độ là thuộc hạ của anh ta tham thú chiếc ngà voi rừng, định dùng súng bắn hạ sát con voi già, nhưng viên thượng úy đã hoạt động nhiều năm ở Ấn Độ, Miến Điện v.

v…, nên biết rõ tập tính của bầy voi rừng.

Anh ta không cho người binh sĩ nọ dễ dàng nổ súng làm kinh động đến nó, mà lặng lẽ dẫn quân đi sát theo sau.

Điều anh ta muốn biết là rốt cục con voi đến chỗ nào để chờ chết.

Thì ra voi rừng Miến Điện có một tập tính, khi một con voi già yếu và chuẩn bị chết, nó thường linh cảm được sự tắt rụi của số mệnh, bèn một mình rời khỏi đàn voi, đơn độc tiến vào rừng sâu.

Nó đi mãi cho đến huyệt động đá nơi tổ tiên vùi xương hàng ngàn năm nay, sau đó nằm phủ phục bên cạnh đống xương voi chồng chất, không ăn không uống, lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón.

Tương truyền, mộ huyệt voi rừng Miến Điện, cổ xưa nhất dễ có lịch sử hàng vạn năm, xương voi, ngà voi trong động chất đầy như núi.

Số lượng di hài bầy voi rốt cục có bao nhiêu, chẳng ai đếm được chính xác, cũng do niên đại quá xa xôi, thậm chí có những chiếc ngà voi quá cổ xưa đã hóa thạch nằm dưới tầng đáy của động huyệt.

Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo chế tạo từ ngà voi được giới quý tộc châu Âu rất ưa chuông, giá trị bất phàm.

Viên thượng úy Anh biết rằng chỉ cần bám theo tông tích con voi già, rất có khả năng sẽ tìm thấy miền đất vùi xương của tổ tiên nó, điều đó cũng có nghĩa là sẽ tìm ra một kho báu giá trị liên thành, chứ không chỉ đơn giản dừng lại ở hai chiếc ngà voi.

Khi đó, viên thượng úy Anh bị lòng tham làm mờ lý trí nên đã bỏ qua một điều vô cùng quan trọng, quan niệm bầy đàn của voi rừng Miến Điện vô cùng mạnh mẽ, nó không ngại trả mọi giá để bảo vệ bí mật về miền đất vùi xương của tổ tiên.

Không những thế, dường như bầy voi cũng biết được, từ trước đến nay, sở dĩ bầy voi bị loài người săn bắn, hạ sát, căn nguyên chính ở đôi ngà quý giá, bởi vậy mộ huyệt chúng lựa chọn thường nằm giữa khu vực nguy hiểm nhất trong núi sâu, rừng già, đủ để khép chặt lối về của bất kỳ kẻ bám sát nào.

Kết quả, viên thượng úy chỉ huy hơn hai trăm tinh binh Ấn Độ, bám sát dấu chân con voi già, tiến sâu vào sơn cốc ẩn khuất.

Vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy vô số động huyệt thiên nhiên bị màn rễ của cây si buông rủ phủ kín, nằm sâu trong sơn cốc.

Đó đều là những huyệt động thiên nhiên được hình thành do quá trình nước mưa xâm nhập vào lòng núi đá vôi, làm tan chảy phần nham thạch mềm xốp, trải qua hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm dần dần điêu khắc mà thành.

Gió lạnh trong động thổi vù vù, huyệt động âm u huyền bí bốn phía thông thoáng, hình thành một mạng lưới địa hình Karst – kiểu địa hình phong hóa đặc trưng của những miền núi bị chảy xói mòn – dày đặc, miên man.

Những động huyệt này không chỉ khoáng đạt, rộng rãi khác thường mà còn chứa đựng tầng tầng lớp lớp di hài của loài voi rừng.

Viên thượng úy Anh kinh ngạc cực độ, chỉ có thể dùng bốn chữ “động huyệt ma mút” để hình dung cảnh tượng đang hiện ra trước mắt.

Mặc dù trong đống di hài voi rừng cao ngất tuyệt đối không có xương của loài mãnh thú thời kỷ nguyên băng hà, nhưng chỉ có thể hình khổng lồ của nó mới đủ sức mô tả động huyệt hùng vĩ như một kỳ tích này.

Ngoài ra, bọn họ còn phát hiện, nơi tận cùng động huyệt ma mút ăn thông với một khe cốc khổng lồ với độ sâu khó lường, màn sương mù ào ra từ lòng đất quánh đặc đến nỗi tưởng như không thể rẽ ra nổi, lúc đó chẳng ai dám bước chân thăm dò.

Tuy viên thượng úy không dám tiến sâu vào khe cốc, nhưng núi sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, ngoại trừ rắn độc, ác thú ra, thì còn vô số lời nguyền cổ xưa.

Cuối cùng cả đoàn quân đều bị tiêu diệt gần như sạch trơn.

Viên thượng úy nọ cũng nằm trong số những kẻ phải bỏ mạng, chỉ có vài người may mắn sống sót nhưng chẳng ai mang nổi nửa cái ngà voi ra khỏi rừng.

Sau đó rất nhiều nhà thám hiểm và những kẻ đầu cơ cũng thử vào đây tìm vận may, nhưng chẳng có ai trở về.

Bởi thế sơn cốc này bị coi là vùng đất cấm.

Khương sư phụ phán đoán, khe cốc này có lẽ chính là “Tượng môn” mà tấm bản đồ cổ đã mô tả, hướng đi của con đường Stilwell về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng.

Trong quá trình tiến hành thi công đường hầm, quân đội Mỹ đã vô tình xuyên thủng rìa khe cốc khiến sương khí trong lòng đất trào ra, bao nhiêu nhân viên bị bỏ mạng hoặc mất tích từ đây, bởi vậy quân đội Mỹ đành từ bỏ tuyến đường 206B.

Nơi tận cùng của “Tượng môn” có lẽ cùng nối liền trực tiếp với lòng núi Dã Nhân.

Đường đến khe cốc trong núi sâu có lẽ cũng không chỉ có một lối, nhưng “mọi ngả đường đều dẫn về La Mã”, chẳng có nơi nào là không nguy hiểm.

Nếu bây giờ dùng thuốc nổ để mở lối ra của đường hầm 206 thì không chỉ một chốc một lát có thể thành công, Khương sư phụ tự lượng đội thám hiểm đều được vũ trang đầy đủ, hơn nữa kinh nghiệm lại rất phong phú, nếu cứ giằng co mãi ở con đường U Linh tương đối an toàn, chi bằng mạo hiểm xông vào động huyệt ma mút.

Lão cũng là kẻ toan tính lọc lõi, trước tiên bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải hai người đi trước dò đường, đồng thời còn sắp xếp Xuyên Sơn Giáp đi theo giám sát.

Ngọc Phi Yến cũng đồng ý với cách sắp xếp này, bèn giơ tay gọi ba người lại, rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa hai con dao săn cho hội Tư Mã Khôi dùng để phòng thân, ngoài ra còn phân phát hai chiếc đèn pin và pháo sáng tín hiệu.

Xuyên Sơn Giáp là gã người Quan Đông, khoảng hơn bốn mươi tuổi, trên mặt hằn một vết sẹo do dao chém, tứ chi ngắn ngủn, thô ráp, thân hình thấp lùn, săn chắc, tính tình trầm lặng ít nói, dễ nóng nảy cáu bẳn, bản mặt lúc nào cũng gằm gằm.

Gã tự biết đi trước dẫn đường rất nguy hiểm nhưng thủ lĩnh đã phát lệnh, thì không dám trái lời, bèn gắt gỏng thúc giục Tư Mã Khôi và La Đại Hải:

“Hai thằng ôn nghe cho rõ đây, đi đằng trước, da mặt phải căng ra một chút, cố gắng mà tỉnh táo cho ông mày đấy”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ định cố tình tụt lại phía sau, nhưng nghe Ngọc Phi Yến bố trí thì thầm nghĩ:

“Thành viên trong đội thám hiểm các cô, người nào cũng được vũ trang đến tận răng, còn có cả Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, thế mà bắt bọn tàn binh bại tướng bọn tôi mạo hiểm tính mạng đi trước dò đường cũng không biết ngượng mặt à?

”, nhưng rồi lại tính:

“Chúng ta làm sao phải cúi đầu trước gã lùn thó thế kia, đã biết chắc mình sẽ trở thành xác pháo đi dò địa lôi cho bọn họ, cơ sự đến nước này muốn không đi cũng không được, tốt nhất chả nên lèm bèm làm gì, chẳng có chỉ khiến người ta thêm khinh thường”.

Thế là người nào người nấy làm theo gã lùn, uể oải đứng dậy, bước từng bước chậm chạp.

Càng đi sâu vào trong sơn cốc, địa thế càng trở nên rộng rãi, thoáng đạt, nhưng chiếc cầu gỗ cây rừng cũng càng cao lớn lừng lững hơn, tưởng như muốn chọc thủng trời, tán lá um tùm, đan cài, kết chặt vào nhau, tấm màn màu xanh khổng lồ giăng mắc giữa không trung hoàn toàn che kín vòm trời, trên mặt đất cây bụi, cỏ dại mọc rậm rạp, chồng chéo xen lấn lẫn nhau, rất nhiều chỗ phải lần mò từng bước.

Do nơi đây quanh năm không có ánh mặt trời, cho nên từ những vũng nước tù ở chỗ trũng bốc lên một mùi hôi thối, tanh tưởi sộc lên tận mũi.

Phần đáy rừng rậm hoàn toàn bị lớp sương mờ khói nhẹ bủa vây, sương khí thông thường được chia ra làm mấy loại như sương mù gió, sương mù núi, sương mù hơi, sương mù bức xạ, ở những nơi rừng sâu núi thẳm hoặc những khu vực có vũng tù nước đọng còn xuất hiện chướng khí, sương mù mang theo độc tố.

Thế nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa ai có thể giải thích, màn sương mù trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cuối cùng thuộc thể loại sương mù gì và được hình thành như thế nào.

Thông qua đo lường, người ta đã xác định loại sương mù này hoàn toàn không có độc, cũng không có tác dụng khiến người ta hôn mê hay hoang tưởng, vậy rốt cục nó được sinh ra bởi khí ẩm trong lòng núi hay từ dưới lòng đất trào ngược lên.

Bất luân thế nào sự xuất hiện của “sương mù” đánh dấu bắt đầu từ chỗ này đã bước vào lãnh địa của khu vực nguy hiểm thực sự.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải nén nhịn thở, rẽ đám gai bụi phía trước, xuyên qua rừng rậm um tùm dưới sơn cốc từ từ tiến sâu vào trong.

La Đại Hải ngoái đầu nhìn Xuyên Sơn Giáp bám sát phía sau, cách họ chừng mười mấy mét, hằn học nói:

“Con giặc ranh Ngọc Phi Yến lòng dạ đen tối thật, bây giờ bọn mình bị rơi vào tay nó, mẹ kiếp, khác nào Võ Đại Lang gặp Phan Kim Liên

- đúng là lành ít dữ nhiều”.

Tư Mã Khôi điềm nhiên bảo:

“Chí ít Võ Đại Lang còn có huynh đệ là Võ Tòng giúp ông ta trả thù huyết hận, tớ thấy nếu chẳng may bọn mình phải lên đường điểm danh với Diêm Vương thì cũng chả có ma nào thèm đến đây giúp dọn xác đắp mộ đâu.

Có điều việc đến nước này, cậu nên nghĩ thoáng một chút, miếu nào mà chẳng có vài oan hồn, ai bắt số bọn mình đen đủi”.

Hải ngọng từ đầu đã nhìn không thuận mắt đám người trong đội thám hiểm, anh chửi đổng một hồi, sau đó ngoái lại phía sau nhìn Xuyên Sơn Giáp, thấy đối phương cách mình không quá gần, chắc chẳng nghe thấy gì, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi:

“Khôi này, cậu thử ngắm vị đi đằng sau chúng ta xem, sao tớ thấy gã ngứa mắt thế nhỉ, cậu bảo hai đứa bọn mình tham gia ngần ấy năm trong quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện, giết bao nhiêu người, nổ bao nhiêu vụ, ngay cả bản thân cũng chẳng rõ, nói gì thì nói chẳng phải chúng ta vẫn đang cố nén chịu đấy ư?

Nhưng cậu nhìn gã chẳng qua chỉ là cái thằng trộm mộ, chẳng biết làm gì ngoài việc lén lén lút lút đào bới mấy ngôi mộ vô chủ, nhân tiện bắt nạt luôn người chết nằm trong quan tài, gã thì có bản lĩnh gì mà dám vác cái bản mặt ra vẻ thâm trầm thế nhỉ?

Tư Mã Khôi cũng liếc mắt nhìn về phía sau một cái, anh bảo La Đại Hải chớ đảo lưỡi nói bừa, vị “Xuyên Sơn Giáp” tuyệt đối không phải hạng tầm thường đâu, cậu ngắm hai cánh tay vừa ngắn vừa thô của gã mà xem, chắc chắn được rèn luyện lâu năm từ công việc “bới huyệt, đào lỗ, chui ống khói”, còn đôi chân vòng kiềng nữa chứ, dài như cái lò xo, vừa nhảy vào động huyệt, chỉ cần “chíu” một cái là có thể bắn xa hơn mười trượng, cậu lại nhìn thân thể nung núc những thịt kia tớ đoán nếu bị ngâm trong mộ cổ không ăn không uống nửa tháng, gã cũng chẳng thể chết vì đói.

Vị “Xuyên lão gia” này chắc chắn là bậc kỳ tài cái thế, được sinh ra chuyên để khai quật mồ mả đấy.

La Đại Hải chẳng mấy tin, liền hỏi:

“Cậu bảo gã là người hay cái cào đất?

”, anh nói xong, không nhịn được liền liếc mắt ra sau, nhưng vừa nhìn đã giật nảy mình, suýt chút nữa cổ Hải ngọng rơi rụng khỏi đầu, anh vội vàng hét gọi Tư Mã Khôi.

Lúc hai người quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau vắng tanh không một bóng người, gã Xuyên Sơn Giáp luôn bám sát sau lưng đột ngột biến mất chẳng còn tông tích.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thất kinh trong lòng, nếu khi nãy Xuyên Sơn Giáp vô ý rơi vào đầm lầy trong hốc cây thì chắc phải nghe thấy chút động tĩnh gì đó mới phải, nhưng chỉ trong thời gian nháy mắt, hai người đều chẳng phát giác được Xuyên Sơn Giáp bám ngay phía sau chạy đi đâu mất.

Đúng lúc đó, hai người nghe thấy dường như có một con vật rất to lớn động đậy trên vòm cây, liền lập tức ngẩng đầu lên nhìn, đồng thời bật sáng đèn pin, chiếu thẳng vào nơi phát ra âm thanh, quét đi quét lại tìm kiếm, thì thấy thân thể của Xuyên Sơn Giáp đang chơi vơi giữa không trung âm u, nét mặt khó coi đến cực độ, ngũ quan biến dạng, dường như miệng không thể nói, chỉ thấy tứ chi vừa ngắn vừa thô kiệt sức giãy giụa, giằng co.

Thì ra ở trên cao cách chỗ họ mười mấy bước, có một con mãng xà đen, thân hình to như thùng nước, con mãng xà vắt vẻo trên một thân cây cổ thụ, cuộn thành mấy vòng, nó thả người từ trên cao xuống, há cái miệng rộng ngoác như cái đấu gạo, đỏ lòm lòm như máu không ngừng hít khí, Xuyên Sơn Giáp đang đi đúng tầm bị nó hút ngược từ dưới gốc cây lên giữa không trung rồi nuốt sống vào bụng.

Mạng Y Tế

Nguồn: https://amp.mangyte.vn/truyendoc-me-tong-chi-quoc-may-bay-tiem-kich-112968.html