Nhóm máu và kích thước cơ thể là yếu tố quan trọng để xác định người cho thích hợp; tuổi và giới tính không quyết định.
Suy gan có thể xảy ra thình lình (suy gan cấp) do nhiễm siêu vi hay tai biến dùng
Thu*c gây ngộ độc gan cấp tính, hoặc sau thời gian bệnh lâu ngày như xơ gan, xơ gan ứ mật nguyên
phát (hệ miễn dịch phá hủy đường mật làm suy gan), teo đường mật bẩm sinh, bệnh Wilson (ứ đồng
trong gan và nhiều cơ quan khác), ứ sắt, bệnh quá nhiều Alpha-1 antitrypsin trong gan, ung thư
gan.
Nhóm máu và kích thước là quan trọng
Người suy gan được chọn phải có sức khỏe tạm ổn định cho phép chịu được cuộc mổ và
đảm bảo thành công tối đa. Họ luôn được thăm khám kỹ, trải qua nhiều xét nghiệm, được một hội đồng
chọn lựa
ghép gan gồm các bác sĩ từ nhiều chuyên khoa (bác sĩ chuyên khoa gan, phẫu thuật viên ghép
tạng, điều phối viên ghép tạng, bác sĩ gây mê; ở nước ngoài còn có chuyên viên tâm lý) quyết
định.
Các xét nghiệm để đánh giá toàn diện sức khỏe gồm nhóm máu, chức năng đông máu,
chức năng gan, sàng lọc bệnh viêm gan siêu vi và xét nghiệm HIV; X-quang phổi, siêu âm tim, đo chức
năng hô hấp, sinh thiết gan, CT bụng ghi nhận hình ảnh gan, siêu âm Doppler xác định những mạch máu
đến và đi từ gan.
Người cho gan có thể là người sống khỏe mạnh. Một phần gan từ người cho khỏe mạnh
được cấy vào chỗ lá gan suy. Họ có thể là người cùng huyết thống, vợ chồng hay bạn bè của người
nhận; được xem xét kỹ lưỡng trước khi lựa chọn nhằm giảm thiểu thấp nhất các nguy cơ. Nhóm máu và
kích thước cơ thể là yếu tố quan trọng để xác định người cho thích hợp; tuổi và giới tính không
quyết định.
Người cho gan cũng có thể là người đang ch*t, cụ thể là nạn nhân T*i n*n giao
thông hay chấn thương sọ não. Tim vẫn còn đập nhưng não đã ngừng chức năng, họ được xem là ch*t hợp
pháp. Trên thực tế, người cho như vậy thường đang nằm viện tại các khoa hồi sức tích cực. Những
trường hợp này luôn được bảo mật.
Những sự cố sau phẫu thuật
Một phẫu thuật
ghép gan mất 6-12 giờ, gan hư bị cắt bỏ và thay bằng phần gan hiến
tặng. Hai biến chứng sau mổ thường gặp nhất là thải ghép và nhiễm trùng. Cơ thể luôn đào thải vật
lạ. Gan mới này bị xem là vật lạ nên hệ miễn dịch lập tức tấn công và tiêu diệt nó. 70% bệnh nhân
ghép gan đều có hiện tượng thải ghép ở nhiều mức độ. Vì vậy luôn phải dùng Thu*c ức chế miễn dịch
để chống lại sự thải ghép này. Khi đó người nhận gan bị đặt vào tình huống nguy cơ nhiễm trùng rất
cao do hệ miễn dịch bị suy yếu.
Tuy nhiên theo thời gian nguy cơ này giảm dần và hầu hết các nhiễm trùng có thể
kiểm soát được nếu xảy ra. Thu*c ức chế miễn dịch phải dùng suốt đời. Nếu không bị thải ghép, gan
người nhận (và phần gan còn lại của người cho) sẽ đạt được kích thước bình thường sau vài tuần.
Thời gian nằm viện thường 2-3 tuần tùy theo tình hình sức khỏe và biến chứng. Nhóm
ghép gan luôn chuẩn bị cho bệnh nhân trước khi xuất viện, như hướng dẫn cách uống Thu*c, theo dõi
mạch và huyết áp, biết những dấu hiệu thải ghép, nhiễm trùng và biết khi nào phải liên lạc với bác
sĩ. Có đợt nhiễm trùng hay thải ghép cần phải nhập viện lại. Luôn khuyến khích sự hỗ trợ của gia
đình trong việc theo dõi và chăm sóc người được
ghép gan.
Những cột mốc lịch sử (*)
Năm 1963 ca
ghép gan đầu tiên cho một bé trai 3 tuổi bị teo đường mật bẩm sinh,
nhưng bé ch*t lúc mổ vì chảy máu. Một năm sau đó, năm ca nữa được thực hiện nhưng không ai sống quá
23 ngày. Nguyên nhân ch*t không phải do thải ghép mà do gan ghép không đủ máu nuôi nên giảm chức
năng, một phần do Thu*c ức chế miễn dịch kém hiệu quả đưa đến rối loạn đông máu, nhiễm trùng và suy
đa cơ quan.
Năm 1966, khi có huyết thanh kháng lympho bào, bác sĩ Starzl lại tiếp tục
ghép gan
và thực hiện thành công cho bé gái 19 tháng tuổi bị ung thư gan. Bé sống thêm 13 tháng và ch*t vì
di căn. Trước năm 1968, gan chọn để cho lấy từ người ngưng tim, nhưng thời gian từ lúc ngưng tim
đến khi lấy được gan có thể làm gan thiếu tưới máu ảnh hưởng đến sự sống và chức năng của gan.
Đến năm 1968, tại châu Âu luật pháp mới cho phép lấy gan từ người ch*t não và có
ca
ghép gan thành công. Nhưng 70% người nhận gan vẫn ch*t sau phẫu thuật vài tháng, tỉ lệ sống một
năm còn thấp dưới 20% nên
ghép gan chỉ là giải pháp sau cùng.
Phải đến năm 1983, tức mất 20 năm vất vả, y học mới có đủ chứng cứ kết luận ghép
gan là phương pháp điều trị khả thi, kéo dài đời sống. Quy trình lấy và bảo quản gan, kỹ thuật ghép
được hoàn thiện dần, Thu*c ức chế miễn dịch tốt hơn góp phần cho sự thành công.
Nhưng không chỉ là vấn đề kỹ thuật, chọn đúng người bệnh và quyết định thời điểm
ghép rất quan trọng. Tuy tỉ lệ sống một năm và năm năm hơn 85% và 70%, nhưng những biến chứng liên
quan hay không do gan, tác dụng phụ của Thu*c ức chế miễn dịch, và khả năng tái phát bệnh gan ban
đầu (ví dụ viêm gan B, C) đã khiến không ít người ngần ngại chọn giải pháp này.
Mangyte.vn
Theo TS.BS Lê Tuyết Hoa/ Tuổi Trẻ