Tiền liệt tuyến (TLT) là một cơ quan nằm dưới bàng quang, sau xương mu, trước trực tràng và bao phủ xung quanh niệu đạo tiền liệt. Bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Do TLT nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy được khi đưa ngón tay vào trong hậu môn (thuật ngữ y khoa còn gọi là “thăm trực tràng”).
tiền liệt tuyến (TLT) là một cơ quan nằm dưới bàng quang,
sau xương mu, trước trực tràng và bao phủ xung quanh niệu đạo tiền liệt. Bệnh
thường gặp ở nam giới cao tuổi. Do TLT nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy
được khi đưa ngón tay vào trong hậu môn (thuật ngữ y khoa còn gọi là “thăm trực
tràng”). TLT có hình nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4cm, cao 3cm, dày
2,5cm, nặng trung bình 15 - 20gram ở người lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ
tuổi từ 40 - 50 trở lên có tỷ lệ phì đại TLT khoảng 90%.
tiền liệt tuyến có chức năng gì?
TLT có chức năng chính là tiết ra tinh dịch rồi đổ vào niệu
đạo ở xoang tiền liệt. Dịch TLT có màu trắng đục với độ pH khoảng 6,5 (kiềm hơn
dịch *m đ*o), nhờ vậy có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho
đến khi thụ tinh. Lượng dịch do TLT bài tiết chiếm khoảng 30% thể tích dịch
phóng ra trong mỗi lần giao hợp. Dịch TLT chứa nhiều acid citric, ion canxi,
nhiều loại enzym đông đặc, tiền fibrinolysin, prostaglandin. Các enzym đông đặc
của TLT sẽ tác dụng vào fibrinogen làm đông nhẹ tinh dịch ở đường Sinh d*c nữ,
do vậy có thể giữ tinh trùng nằm sát cổ tử cung. Sau 15 - 30 phút, tinh dịch sẽ
được làm loãng trở lại nhờ enzym fibrinolysin có trong dịch TLT và tinh trùng
hoạt động trở lại. Prostaglandin của dịch TLT cũng như dịch của túi tinh sẽ làm
co cơ tử cung, tăng nhu động vòi trứng giúp tinh trùng di chuyển trong đường
Sinh d*c nữ và dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động T*nh d*c.
Các bệnh hay gặp của TLT
Viêm TLT cấp tính: Là tình trạng nhiễm khuẩn TLT thường do
một số vi khuẩn tương tự gây nhiễm khuẩn bàng quang. Các vi khuẩn đó là E.Coli,
Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể từ đường máu lan đến TLT, hoặc từ cơ quan
kế cận, hoặc do sinh thiết TLT không đảm bảo vô khuẩn. Bệnh thường hay gặp
trong tuần trăng mật giữa tân lang và tân nương do hoạt động T*nh d*c quá
nhiều. Bệnh khởi phát đột ngột với sốt, ớn lạnh, đau vùng lưng dưới và vùng
tầng sinh môn (vùng nằm giữa bộ phận Sinh d*c ngoài và hậu môn), kèm theo tiểu
khó, tiểu lắt nhắt nhiều lần trong ngày. Thêm vào đó có thể tiểu máu đầu bãi,
cuối bãi hoặc toàn bãi. Thầy Thu*c sẽ cho làm xét nghiệm nước tiểu để tìm bạch
cầu, vi khuẩn giúp chọn lựa kháng sinh phù hợp. Thường kháng sinh được cho là
nhóm fluoroquinolon (ciprofloxacin), kèm theo là một Thu*c kháng viêm như
serratiopeptidase. Bệnh nhân được cho nghỉ ngơi, uống nhiều nước và Thu*c giảm
đau. Nếu bệnh nhân ở trong tình trạng suy giảm miễn dịch như đang được hóa trị
liệu, hay nhiễm HIV/AIDS, cần cho bệnh nhân nhập viện ngay.
Viêm TLT mạn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với
giai đoạn cấp tính. Bệnh nhân không sốt, đau lúc phóng tinh và tinh dịch có
máu. Tiểu khó, tiểu ít một nhiều lần trong ngày, đôi lúc có chảy dịch ở đầu
D**ng v*t. Điều trị bằng kháng sinh như nhóm fluoroquinolon (ciprofloxacin,
levofloxacin, moxifloxacin) kết hợp với một kháng viêm không steroid như
diclofenac.
U phì đại lành tính TLT: Ở trẻ em, TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy
thì, TLT bắt đầu phát triển đạt tới kích thước tối đa vào lúc 20 tuổi và giữ
nguyên kích thước cho tới năm 50 tuổi. Kể từ tuổi 50 trở đi, TLT to ra theo
thời gian và gây ra bệnh u phì đại lành tính TLT. Bệnh phát triển từ từ hay đột
ngột với những biến chứng như nhiễm khuẩn, bí tiểu, suy thận. U phì đại lành
tính TLT không có hiện tượng ung thư hóa nhưng có thể bị ung thư xâm nhiễm với
tỷ lệ từ 10 - 25%. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân hay tiểu lắt nhắt vào ban đêm,
nhất là từ nửa đêm đến sáng sớm, mỗi lần đi tiểu phải rặn. Sau đó đi tiểu lắt
nhắt cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn còn có cảm giác nước tiểu chưa
ra hết mà còn đọng lại trong bàng quang. Cuối cùng là tiểu ri rỉ hoặc bí tiểu.
Nhiễm khuẩn là biến chứng hay gặp. Thăm trực tràng thấy một khối u to, hơi mềm
hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chính xác, cần cho bệnh nhân siêu âm. Trong
giai đoạn đầu, thầy Thu*c thường cho điều trị nội khoa với các Thu*c như
tadenan, xatral, crila (chiết xuất từ lá cây trinh nữ hoàng cung). Khi bệnh
tiến triển nặng hoặc biến chứng, cần can thiệp phẫu thuật. Hiện nay, phẫu thuật
được nhiều thầy Thu*c ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường niệu
đạo.
Ung thư TLT: Khi ung thư TLT xảy ra, các tế bào ung thư phát
triển rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosteron (nội tiết tố Sinh d*c
nam). Ngược lại, sự phát triển của tế
bào ung thư sẽ bị ức chế nếu cắt bỏ tinh hoàn. Ung thư TLT ít gặp hơn u phì đại
lành tính TLT. Triệu chứng bao gồm: đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn
chức năng cương... Chỉ 1/3 bệnh nhân là có triệu chứng lâm sàng. Ung thư TLT
hay di căn đến xương và hạch limpho. Khi đó, bệnh nhân thường bị đau xương, hay
gặp ở xương đốt sống, khung chậu hoặc xương sườn. Ung thư TLT di căn đến đốt
sống có thể chèn ép dây sống khiến yếu chân, tiểu tiện và đại tiện không tự
chủ. Để chẩn đoán ung thư TLT có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu nồng
độ PSA trên 40 nanogam/ml, thì nghi ngờ ung thư TLT. Tuy nhiên, nồng độ PSA có
thể tăng khi nhiễm khuẩn, khi khối u TLT trên 60g. Vì vậy, để chẩn đoán chắc
chắn, cần sinh thiết TLT khi thăm trực tràng thấy một khối u to, cứng, bề mặt lổn
nhổn cộng với triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo giai đoạn bệnh, di căn mà
thầy Thu*c sẽ cho cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
BS. Ngô Văn Tuấn