Hàng ngày, cùng với lượng acid bay hơi (C02), cơ thể sinh ra khoảng 1mEq/L acid không bay hơi (ion hydro = H ) cho mỗi kg trọng lượng cơ thể mỗi ngậy (1 mEq/L/kg/ngày) do quá trình chuyển hóa. Tuy vậy, pH cơ thể luôn được giữ hằng định ở mức 7,4 do phổi thải C02 và thận thải H .
Để đánh giá tinh trạng cân bằng toan- kiềm cơ thể, cần đo pH máu động mạch, bicarbonat huyết tương (HCO3-) và áp lực riêng phần C02 (PC02).
Các máy đo khí máu đo trực tiếp pH, PC02, còn HCO3- thì được tính theo phương trình Henderson- Hasselbalch:
Đo C02 toàn phần máu tĩnh mạch xác định trực tiếp HCO3- hơn. Do các đặc điểm phân ly của acid carbonic (H2CO3) trong cơ thể, CO2 hòa tan gần như chỉ ở dưới dạng hoặc HCO3- nên trên lâm sàng, nồng độ CO2 tương đương với nồng độ hoặc HCO3- (± 3 mEq/L).
H HCO3- < = > H2CO3 < = > H2O CO2
Nếu không cần biết mức độ cung cấp oxy hoặc nếu độ bão hòa oxy, đo qua da bình thường, có thể đo khí máu qua máu tĩnh mạch để đánh giá cân bằng toan - kiềm vì sự khác biệt về pH và PC02 không khác mấy so với máu động mạch và tương đối hằng định. Thường thì pH máu tĩnh mạch thấp hơn máu động mạch 0,03 - 0,04 và PC02 ở máu tĩnh mạch cao hơn máu động mạch là 7 - 8 mmHg, còn HCO3- cao hơn 2 mEq/L. Riêng trong trường hợp ngừng tuần hoàn, sự khác biệt là rất lớn nên không dùng máu tĩnh mạch để đánh giá thăng bằng toan - kiềm cơ thể được vì khi đó, pH động mạch có thể là 7,41 mà ở máu tĩnh mạch có thể là 7,15, còn PCO2 máu động mạch có thể là 32mmHg mà ở máu tĩnh mạch có thể lên tới 74 mmHg.
Có hai loại rối loạn toan - kiềm: hô hấp và chuyển hóa các bệnh lý hô hấp ảnh hưởng pH máu do làm biến đổi áp lực PC02 còn bệnh lý chuyển hóa làm thay đổi pH máu do làm biến loạn nồng độ HCO3-. Những biến đổi tiên phát thường gây ra những thay đổi bù trừ. Dù sự bù trừ này làm giảm nhẹ sự biến đổi pH so với giá trị bình thường (7,40), nhưng vẫn không hoàn toàn bù được các biến đổi tiên phát trong thăng bằng toan - kiềm, dù là biến đổi mạn tính. Vì vậy, khi pH < 7,4, quá trình nguyên phát là nhiễm toan (dù là toan hô hấp hay toan chuyển hóa). Còn nếu pH > 7,4 thì quá trình nguyên phát là nhiễm kiềm (dù là kiềm hô hấp hay kiềm chuyển hóa).
Khi có hom một kiểu rối loạn đơn thuần (không có bù) là rối loạn kiểu hỗn hợp. Có thể có đến 3 loại rối loạn trong cùng một hoàn cảnh, nhưng không bao giờ có 4 loại đồng tồn tại, vì không thể có toan hô hấp và kiềm hô hấp cùng một lúc.
Thường thì thầy Thu*c lâm sàng cảm thấy khó quyết định là có loại rối loạn phối hợp. Cách hữu ích là xác định xem mức độ bù trừ cho rối loạn tiên phát có đầy đủ không. Khi có rối loạn kiểu hô hấp, nếu mức độ bù qua nồng độ HCO3- khác với mức độ tiên đoán, tức là bệnh nhân đang có rối loạn kiểu hỗn hợp. Vì thế, có toan chuyển hóa kèm theo sẽ làm giảm nồng độ HCO3- nhiều hơn dự đoán, còn có kiềm chuyển hóa thì sẽ làm tăng nồng độ HCO3- nhiều hơn dự đoán. Ví dụ, ở một bệnh nhân, có toan hô hấp mạn tính với PC02 là 60 mmHg sẽ phải có HCO3- là 31 mEq/L (giả sử bình thường HCO3- là 24 mEq/L). Nếu HCO3- chỉ là 25 mmHg, chứng tỏ có toan chuyển hóa kèm theo, còn nếu HCO3- là 45mEq/L, thì chứng tỏ có kiềm chuyển hóa kèm theo. Tương tự, nếu dùng các số liệu trong bảng, ta có thể xem xét về các bệnh lý dạng chuyển hóa.
Ngoài ra, dùng nồng độ bicarbonat có hiệu chỉnh (HCO3-) tính từ HCO3- đo được cùng với khoảng trống anion tăng có thể đánh giá được mức độ kiềm chuyển hóa phối hợp hoặc toan chuyển hóa có khoảng trống anion bình thường. Khi nhiễm toan có tăng khoảng trống anion, thì có nghĩa là có 1 phân tử để làm hạ 1 phân tử HCO3- khi khoảng trống anion giảm. Vì thế, khi HCO3- cao hơn hay thấp hơn giá trị thông thường (24 mEq/L), chứng tỏ có nhiễm kiềm chuyển hóa hay nhiễm toan có khoảng trống anion bình thường kèm theo.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chống dịch dịch covid dự kiến khỏi bệnh mắc mới nâng cấp rối loạn sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới