Bài thuốc dân gian hôm nay

Đông bệnh hạ trị - trị bệnh mùa đông trong mùa hè

“Đông bệnh” là những chứng bệnh thường hay phát tác vào mùa đông, còn “hạ trị” là tiến hành chữa trị trong mùa hè. Như vậy, “Đông bệnh hạ trị” là chữa trị các bệnh mùa đông trong mùa hè.
Từ nhiều năm nay, cứ tới những ngày cuối hè, ở hầu hết các tỉnh và thành phố tại Trung Quốc, lại thấy cảnh người dân nối đuôi nhau xếp hàng trước các Phòng khám Đông y, để chờ đến lượt được “đông bệnh hạ trị”. Theo đánh giá của giới y học, “đông bệnh hạ trị” trở nên thịnh hành, được đông đảo bệnh nhân ưa chuộng, do có 4 ưu điểm chính: hiệu quả cao, an toàn, kinh tế và ít tác dụng phụ.

đông bệnh hạ trị” là gì?

“Đông bệnh” là những chứng bệnh thường hay phát tác vào mùa đông, còn “hạ trị” là tiến hành chữa trị trong mùa hè. Như vậy, “đông bệnh hạ trị” là chữa trị các bệnh mùa đông trong mùa hè.

đông bệnh hạ trị” là một phương pháp phòng trị bệnh tật rất độc đáo, lưu truyền trong dân gian từ nhiều thế kỷ trước, được đề cập trong sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân và trình bày một cách hệ thống trong sách Trương Thị y thông của Trương Lộ. Vài chục năm gần đây, phương pháp “đông bệnh hạ trị” chính thức được áp dụng tại các bệnh viện, sau khi kết quả nghiên cứu lâm sàng khẳng định tác dụng phòng ngừa tốt đối với bệnh mùa đông, đặc biệt là các bệnh dị ứng như: hen suyễn, viêm mũi dị ứng...

Từ nhiều thế kỷ trước, Đông y đã nhận thấy một số chứng bệnh như: chứng ho lâu ngày, viêm phế quản mạn tính ở người cao tuổi, hen phế quản (thể hư hàn), tiêu chảy lúc sáng sớm (ngũ canh tả), viêm khớp (thể hàn tý), viêm mũi dị ứng (thể phong hàn)... thường hay tái phát hoặc trở nên trầm trọng hơn trong mùa mùa đông. Trong thời gian bệnh phát tác mạnh, nói chung chỉ có thể tập trung vào việc khống chế các triệu chứng, nghĩa là chỉ có thể “chữa ngọn” (trị tiêu).

Muốn chữa trị tận gốc (trị bản), cần tiến hành trị liệu ngay từ mùa hè, khi bệnh tình đang tạm ổn định. Phòng trị sớm như vậy, thì khi mùa đông tới bệnh sẽ đỡ tái phát, hoặc giả có phát tác thì cũng nhẹ hơn. Thực tế lâm sàng cho thấy, khi tiến hành “đông bệnh hạ trị” như vậy, nói chung chỉ cần bỏ ra ít công sức mà kết quả thu được lại rất khả quan, đặc biệt còn có thể trị được tận gốc cả một số chứng bệnh hiểm nghèo.

Vì sao có thể “đông bệnh hạ trị”?

Theo quan điểm của Đông y học, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các loại “đông bệnh” là “dương hư”. “Dương hư” (còn gọi là “hư hàn”) là một trạng thái bệnh lý, theo cách phân loại chứng bệnh của Đông y. Bệnh lý “dương hư” xuất hiện khi “dương khí” trong cơ thể bị hư tổn, thiếu hụt, không đủ sức để duy trì cân bằng với “âm dịch” bên trong nhân thể, cũng như với “âm hàn” môi trường bên ngoài. Dương hư thì “âm hàn nội sinh” ngay trong nhân thể và “hàn tà” từ bên ngoài cũng dễ xâm nhập vào nhân thể, gây nên các chứng bệnh gọi là “đông bệnh”.

Để chữa trị “dương hư”, trong Đông y có nhiều biện pháp. Trong số đó, “đông bệnh hạ trị” là phương pháp hết sức độc đáo. Theo Đông y, con người và thiên nhiên là một thể thống nhất, tất cả mọi biến động trong thiên nhiên đều có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động của nhân thể. Âm dương bốn mùa biến đổi theo quy luật: mùa xuân, mùa hạ dương khí nhiều mà âm khí ít; mùa thu, mùa đông âm khí thịnh mà dương khí suy (xuân - hạ dương khí đa nhi âm khí thiểu, thu - đông âm khí thịnh nhi dương khí suy). Dương khí và âm khí trong nhân thể cũng biến đổi, thịnh suy theo quy luật như vậy. Để thuận ứng với thiên nhiên - trời đất, y gia thời xưa không những chủ trương “xuân - hè dưỡng dương, thu - đông dưỡng âm” (mùa xuân, mùa hè cần bồi dưỡng dương khí; mùa thu, mùa đông cần bồi dưỡng âm khí), mà còn đề xuất ra phương pháp “đông bệnh hạ trị”, chữa trị các chứng bệnh mùa đông bằng cách lợi dụng “dương khí” (nhiệt năng) của mùa hạ, để bổ sung, tăng cường dương khí, sức chống bệnh của nhân thể.

Phục hạ - dương cực thịnh

Y gia thời xưa nhận thấy, hàng năm đều có một giai đoạn thời tiết nóng nhất, gọi là “Phục hạ”. Tính theo Nông lịch (thường quen gọi là “Âm lịch”), đó là giai đoạn từ sau tiết hạ chí tới tiết lập thu. Trong giai đoạn này, có 3 ngày đặc biệt, 3 điểm mốc đó là “sơ phục”, “trung phục” và “mạt phục”, gọi tắt là “tam phục”; đó là những ngày nóng nhất, dương khí cực thịnh. Chính là những thời điểm thuận lợi nhất, có thể lợi dụng dương nhiệt của mùa hạ, để bồi đắp dương khí trong nhân thể và chữa trị các loại “đông bệnh”, đặc biệt là các bệnh hô hấp, liên quan mật thiết với tạng phế của Đông y.

Cách tính “tam phục” theo Nông lịch như sau: ngày “canh” thứ ba sau tiết hạ chí là “sơ phục”, ngày “canh” thứ tư sau hạ chí là “trung phục”, ngày “canh” thứ nhất sau tiết lập thu là “mạt phục”. Đối với năm 2009, các ngày phục cụ thể sẽ là:

- Sơ phục: 17/7/2009 – ngày “canh thân” theo Nông lịch.

- Trung phục: 24/7/2009 – ngày “canh ngọ” theo Nông lịch.

- Mạt phục: 13/8/2009 - ngày “canh dần” theo Nông lịch.

Theo Thuyết ngũ hành, ngày “canh” thuộc hành Kim. Trong Đông y, tạng phế cũng có thuộc tính ngũ hành là “Kim”. “Đông bệnh” thường liên quan đến chức năng của tạng phế, vì vậy người xưa đã chọn ngày “canh” để thực hiện biện pháp phòng trị.

Trong Đông y cổ đại, việc thực hiện các biện pháp chữa trị cụ thể như: dán cao, cứu ngải, uống Thu*c... được tiến hành mỗi năm 3 lần (một liệu trình): đúng vào các ngày phục nói trên. Tốt nhất trong khoảng thời gian từ 9 giờ sáng tới 2 giờ chiều. Liên tục từ 3-5 năm.

Trong Đông y hiện đại, vẫn lấy những ngày “canh” làm những khởi điểm của “tam phục”, nhưng 3 lần chữa trị hàng năm không nhất thiết phải thực thi vào đúng ngày canh đầu tiên, mà cũng có thể tiến hành vào một trong số 9 ngày tiếp sau trong mỗi phục. Hiện tại, có những thầy Thu*c Đông y còn cho rằng, đối với “đông bệnh” thực tế chỉ cần tiến hành chữa trị vào giai đoạn thời tiết nóng nhất trong năm, là đã có thể mang lại kết quả rất khả quan.

Một số biện pháp cụ thể

Để thực hiện “đông bệnh hạ trị”, trong Đông y có nhiều biện pháp khác nhau như: uống Thu*c, châm, cứu, đắp Thu*c, dán cao, giác hơi, tắm Thu*c, xông Thu*c, thực liệu... Tuy nhiên, việc chữa trị cần tuân theo nguyên tắc Biện chứng luận trị, dưới sự hướng dẫn của thầy Thu*c Đông y. Một số biện pháp tương đối thông dụng để tham khảo:

Thu*c uống:

- Vào những ngày phục, có thể uống bài Thu*c, thành phần như sau: đẳng sâm 12g, bạch truật 12g, phục linh 12g, cam thảo 3g, hoàng kỳ 12g, đương quy 10g, bạch thược 12g, sinh địa 10g, sơn thù 10g, kỷ tử 10g, đại táo 3 trái. Sắc 2 nước, hợp 2 nước lại, chia ra 3 lần uống trong ngày, cách xa bữa ăn.

- Trong những ngày phục, cũng có thể dùng nhân sâm 10g, hãm nước sôi, uống thay trà trong ngày.

- Đối với những người tỳ thận dương hư, từ sau ngày hạ chí, có thể uống hai ba chục tễ Thu*c bổ nguyên khí, như bát vị hoàn, lý trung hoàn, thung dung hoàn… Như vậy có thể tăng cường thể lực và nâng cao sức đề kháng đối với một số bệnh mạn tính trong mùa đông.

Đắp Thu*c lên huyệt vị:

Đối với những bệnh như: hen suyễn, ho lâu ngày, viêm phế quản mạn tính, hoặc một số chứng bệnh khác về phổi, vào 3 ngày tam phục, có thể dùng Thu*c đắp, thành phần như sau: dùng bạch giới tử, tế tân, nguyên hồ, mỗi thứ 12g. Tất cả tán nhỏ, trộn với nước gừng và đắp trên các huyệt “phế du”, “tâm du”, “cách du” hoặc trên các huyệt “phế du”, “bách lao”, “cao hoang”; sau đó dùng băng dính cố định lại. Nói chung, nếu sau 4 - 6 giờ thấy nóng rát hoặc đau nhức ở vùng huyệt thì gỡ Thu*c ra. Nếu chỉ thấy hơi ngứa và nóng thì để thêm vài giờ nữa hãy bỏ ra. Cách 10 ngày làm một lần như vậy, tổng cộng 3 lần trong 1 năm. Liên tục 3-5 năm, kết quả càng tốt.

Lương y HUYÊN THẢO

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-dong-benh-ha-tri-tri-benh-mua-dong-trong-mua-he-18783.html)

Tin cùng nội dung

  • Để sử dụng đúng và có hiệu quả các loại dược liệu, các Bác sĩ viện Y học cổ truyền Trung ương, xin đưa ra hướng dẫn phòng và điều trị bệnh sởi, bằng Y học cổ truyền như sau:
  • Theo dược học cổ truyền, bàng biển vị đắng, hơi chát, tính mát, có công dụng tiêu độc, trừ đàm, giáng nghịch, trừ ho, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như hen phế quản, ho kéo dài, mụn nhọt, rắn cắn, giang mai, kiết lỵ, tiêu chảy, thấp khớp, các bệnh về da và trị giun.
  • Để phối hợp với tân dược trong giai đoạn điều trị, phòng bệnh và chống tái phát bệnh viêm phế quản mạn tính, một trong những phương cách độc đáo của Đông y đó là sử dụng mật ong phối hợp với một vài dược liệu đơn giản, dễ kiếm, dễ tìm và rẻ tiền. Dưới đây xin được giới thiệu một số ví dụ điển hình để độc giả tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
  • Cóc mẳn, còn được gọi là cúc mẳn, cúc ma, cỏ the, nga bất thực thảo..., có tên khoa học là Centipeda minima (L.). Cóc mẳn phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng, trung du và núi thấp, thường mọc nhiều ở những nơi ẩm thấp, ruộng bỏ hoang.
  • Khi dân số có tới gần 30% mắc các bệnh lý về dạ dày và được dự báo sẽ tăng nhanh hơn nữa thì cần phải chú ý điều trị hệ quả của căn bệnh này trước, để giúp bữa ăn mỗi ngày thêm ngon.
  • Cúm là bệnh viêm cấp tính đường hô hấp do virut. Bệnh mang tính lây truyền, rất dễ phát thành dịch, ảnh hưởng đến sức khỏe.
  • Hen phế quản (bệnh hen hay hen suyễn) là tình trạng đường dẫn khí bị hẹp và phù nề cũng như tăng tiết đàm nhầy. Điều này làm việc thở khó khăn và dễ gây ho, khò khè và thở hụt hơi.
  • Viêm phế quản mạn tính, (viêm phế quản mạn), là tình trạng viêm, (hoặc dễ bị kích thích), của đường thở trong phổi.
  • Dân gian có câu “đói quanh năm, no 3 ngày tết”, để chỉ rằng dù trong năm có thiếu thốn đến mấy, nhưng 3 ngày tết vẫn phải no đủ để “lấy hên” cho một năm mới no ấm và đủ đầy.
  • Bạn có thể có nguy cơ bị bệnh phổi liên quan đến công việc nếu không khí tại nơi làm việc chứa quá nhiều bụi, khói, khí gas, hơi hoặc sương mù. Việc hút Thu*c cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh phổi liên quan đến nghề nghiệp. Bài viết này cung cấp những thông tin cơ bản về các nguy cơ và cách phòng tránh.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY