Để lại bình luận tại Chu kì tim (Phần 1)
Các sự kiện của tim xảy ra từ đầu của nhịp tim này đến đầu nhịp tim tiếp theo được gọi là chu kì tim. Mỗi chu kì tim bắt đầu bởi sự tạo ra điện thế hoạt động một cách tự động ở nút xoang.
TÂM TRƯƠNG VÀ TÂM THU
Chu kì tim bao gồm một thời kì cơ tim giãn gọi là thời kì tâm trương (diastole), trong suốt thời kì này thì tim đổ đầy máu, theo sau đó là thời kì co cơ tim gọi là thời kì tâm thu (systole).
Toàn bộ thời gian của chu kì tim, bao gồm cả tâm trương và tâm thu thì tương ứng với nhịp tim. Ví dụ nếu nhịp tim là 72 lần/phút, thì thời gian của chu kì tim là 1/72 phút/nhịp – khoảng 0,0139 phút mỗi nhịp, hoặc 0,833 giây mỗi nhịp.
Hình 9-7 cho thấy các sự kiện khác nhau trong suốt chu kì tim trái. Ba đường cong trên cùng cho thấy sự thay đổi áp lực trong động mạch chủ, thất trái và nhĩ trái. Đường cong thứ tư phản ánh sự thay đổi trong thể tích thất trái, dòng thứ 5 cho thấy điện tâm đồ và dòng thứ 6 cho thấy tâm âm kí, sự ghi lại âm thanh tạo ra bởi tim – chủ yếu bởi van tim – khi tim bơm máu. Người đọc cần hiểu được chi tiết và các nguyên nhân của tất cả các sự kiện trên hình, đây là một điều rất quan trọng trong sinh lí tim.
MỐI LIÊN HỆ CỦA ĐIỆN TÂM ĐỒ VỚI CHU KÍ TIM
Điện tâm đồ trong hình 9-7 cho thấy các sóng P, Q, R, S và T, sẽ được nói đến trong chương 11, 12 và 13. Chúng là điện thế được tạo ra bởi tim và ghi lại bởi điện tâm đồ từ bề mặt cơ thể.
Sóng P tạo ra bởi sự lan truyền sóng khử cực qua tâm nhĩ và theo sau bởi sự co tâm nhĩ, làm xuất hiện sự chênh lên nhẹ trong đường cong áp lực nhĩ ngay sau sóng P trên điện tâm đồ.
Khoảng 0,16 giây sau khi xuất hiện sóng P, sóng QRS xuất hiện do sự khử cực của tâm thất, điều này khởi động quá trình co tâm thất và làm cho áp lực tâm thất bắt đầu tăng lên. Vì thế, phức hợp QRS bắt đầu hơi trước khi co cơ tâm thất.
Cuối cùng, sóng T biểu thị cho giai đoạn tái cực của tâm thất khi cơ tâm thất bắt đầu giãn. Vì thế, sóng T xảy ra hơi trước khi kết thúc co cơ tâm thất.
TÂM NHĨ ĐÓNG VAI TRÒ NHƯ MỘT MÁY BƠM MỒI CHO TÂM THẤT
Khoảng 80% máu chảy từ nhĩ xuống thất trước khi nhĩ co. Sau đó nhĩ co và tống 20% máu còn lại xuống thất. Vì thế, chức năng tâm nhĩ như một máy bơm mồi cho tâm thất. Tuy nhiên, tim có thể vận hành dưới hầu hết các tình trạng mà không cần thêm 20% máu này vì nó có khả năng bơm nhiều hơn 300 đến 400% máu cần cho cơ thể khi nghỉ ngơi. Vì thế khi tâm nhĩ không thể thực hiện được chức năng, sự khác biệt dường như không đáng kể nếu người đi không gắng sức; sau đó các triệu chứng cấp tính của suy tim đôi khi phát triển, đặc biệt là khó thở.
SỰ THAY ĐỔI ÁP LỰC TRONG TÂM NHĨ – CÁC SÓNG a, c và v
Trong đường cong áp lực nhĩ của hình 9-7, có 3 sự chênh lên về áp lực tâm nhĩ , được gọi là các sóng áp lực của tâm nhĩ (atrial pressure waves) a, c và v được nhìn thấy.
Sóng a gây ra do sự co cơ tâm nhĩ. Bình thường, áp lực nhĩ phải tăng 4 đến 6 mmHg trong suốt quá trình nhĩ co và áp lực nhĩ trái tăng khoảng 7 đến 8 mmHg trong quá trình này.
Sóng c xảy ra khi tâm thất bắt đầu co; nó được gây ra một phần bởi sự trào ngược của dòng máu và tâm nhĩ ở đầu thời kì co tâm thất nhưng chủ yếu là bởi sự phồng lên của van nhĩ thất về phía tâm nhĩ do tăng áp lực trong tâm thất.
Sóng v xảy ra khi về cuối thời kì co tâm thất; do dòng máu chậm về nhĩ từ các tĩnh mạch trong khi van nhĩ thất vẫn đóng trong suốt quá trình thất co. Sau đó, khi sự co cơ tâm thất qua đi, van nhĩ thất mở ra, làm cho lượng máu tích trữ trong tâm nhĩ chảy nhanh vào tâm thất và làm sóng v biến mất.
CHỨC NĂNG CỦA TÂM THẤT NHƯ MỘT MÁY BƠM
– Tâm thất đổ đầy trong suốt thời kì tâm trương:
Trong suốt thời kì tâm thu của thất, lượng lớn máu tập trung trong nhĩ trái và phải do sự đóng lại của van nhĩ thất. Vì thế, ngay khi tâm thu kết thúc và áp lực tâm thất hạ xuống đến giá trị thấp của tâm trương, thì sự tăng lên trung bình của áp lực trong tâm nhĩ trong suốt tâm thu của thất ngay lập tức đẩy van nhĩ thất mở và cho phép máu chảy nhanh vào tâm thất, biểu hiện bởi sự nâng lên trên đường cong thể tích tâm thất ở hình 9-7. Thời kì này được gọi là thời kì đổ đầy thất nhanh.
Thời kì đổ đầy thất nhanh chiếm khoảng 1/3 đầu thời kì tâm trương. Trong suốt khoảng 1/3 giữa thời kì tâm trương, chỉ một lượng nhỏ máu chảy vào tâm thất; lượng máu này tiếp tục là máu từ các tĩnh mạch đổ qua nhĩ trực tiếp vào tâm thất.
Trong suốt 1/3 cuối thời kì tâm trương, tâm nhĩ co lại và đưa một lượng máu nữa vào tâm thất. Cơ chế này đóng góp khoảng 20% lượng máu đổ đầy thất trong mỗi chu kì tim.
SỰ ĐI RA TỪ TÂM THẤT CỦA DÒNG MÁU TRONG SUỐT KÌ TÂM THU
– Giai đoạn co đẳng tích:
Ngay sau khi sự co cơ tâm thất bắt đầu, áp lực tâm thất nâng lên một cách đột ngột, như trong hình 9-7, làm cho van nhĩ thất đóng lại. Sau đó khoảng 0,02 đến 0,03 giây cần cho tâm thất nâng đủ áp lực để đẩy các van bán nguyệt (động mạch chủ và động mạch phổi) mở. Vì thế, trong suốt giai đoạn này, sự co cơ xảy ra bên trong tâm thất nhưng không có sự tống máu diễn ra. Giai đoạn này được gọi là thời kì co cơ đẳng tích hay đẳng trường, nghĩa là trương lực các sợi cơ tim tăng lên nhưng không có hoặc rất ít có sự ngắn đi của sợi cơ xảy ra.
– Thời kì tống máu:
Khi áp lực thất trái tăng lên trên 80 mmHg (và áp lực thất phải hơi trên 8 mmHg), áp lực tâm thất đẩy van bán nguyệt mở. Ngay lập tức, máu bắt đầu đẩy ra khỏi tâm thất. Gần 60% lượng máu trong tâm thất ở cuối thời kì tâm trương được tống đi trong suốt thời kì tâm thu; khoảng 70% lượng máu này đi ra khỏi tâm thất trong 1/3 đầu thời kì tống máu, với lượng 30% máu còn lại đượn tống đi trong 2/3 thời kì tiếp theo. Vì thế 1/3 đầu thời kì tống máu được gọi là thì tống máu nhanh và 2/3 thời kì tống máu còn lại được gọi là thì tống máu chậm.