Thuốc Điều trị kết hợp tốt nhất

  • Tên thuốc: Avastin

  • Số đăng ký: VN-15051-12
  • Dạng bào chế: Dung dịch đậm đặc để pha dung dịch tiêm truyền
  • Quy cách đóng gói: Hộp 1 lọ
  • Công ty đăng ký: Roche Diagnostics GmbH - ĐỨC-F.Hoffmann-La Roche., Ltd
  • Công ty phân phối: Đang cập nhật
  • Thành phần: Bevacizumab 400mg/16ml

Avastin

1. Chỉ định dùng Thuốc Avastin

- Ung thư đại - trực tràng di căn (mCRC)

Avastin, phối hợp với phác đồ hoá trị có fluoropyrimidine, được chỉ định trong điều trị cho bệnh nhân ung thư đại tràng hoặc trực tràng di căn.

- Ung thư vú tái phát khu trú hoặc ung thư vú di căn (mBC)

Avastin, phối hợp với thuốc nhóm taxel, được chỉ định trong điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư vú tái phát khu trú hoặc ung thư vú di căn.

- Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, không vảy, tiến triển, di căn hoặc tái phát (NSCLC)

Avastin, bổ sung vào phác đồ hóa trị có platin, được chỉ định trong điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, không vảy, tiến triển không phẫu thuật được, di căn hoặc tái phát.

- Ung thư tế bào thận tiến triển và/hoặc di căn (mRCC)

Avastin, phối hợp với interferon alfa-2a được chỉ định trong điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư tế bào thận tiến triển và/hoặc di căn.

- U nguyên bào thần kinh đệm - U tế bào thần kinh đệm ác tính (Giai đoạn IV-WHO)

Avastin, đơn trị liệu hoặc phối hợp với irinotecan, được chỉ định trong điều trị bệnh nhân u nguyên bào thần kinh đệm tái phát.

Dược lực

Cơ chế tác dụng

Avastin (bevacizumab) là một kháng thể đơn dòng nhân hóa tái tổ hợp gắn chọn lọc với và trung hoà hoạt tính sinh học của yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu người (VEGF). Bevacizumab gồm những vùng khung cấu trúc của người kết hợp những vùng gắn kháng nguyên của một kháng thể chuột nhân hóa gắn được với VEGF. Bevacizumab được sản xuất bởi kỹ thuật tái tổ hợp DNA trong hệ thống biểu hiện tế bào động vật hữu nhũ ở buồng trứng chuột lang Trung Quốc trong môi trường dinh dưỡng có chứa kháng sinh gentamicin và được tinh lọc bởi quá trình bao gồm bất hoạt vi rút đặc hiệu và nhiều bước loại bỏ. Chỉ có thể phát hiện Gentamicin trong sản phẩm cuối cùng ở nồng độ ≤ 0,35 ppm. Bevacizumab gồm có 214 amino acid và trọng lượng phân tử khoảng 149.000 dalton.

Avastin ngăn không cho VEGF gắn với các thụ thể của nó, Flt-1 và KDR, trên bề mặt tế bào nội mạc. Sự trung hoà hoạt tính sinh học của VEGF làm giảm sinh mạch của khối u, vì vậy ức chế sự tăng trưởng của khối u. Sử dụng bevacizumab hoặc kháng thể chuột tiền thân của nó trên các mẫu ung thư dị ghép ở chuột trụi lông tạo ra hoạt tính kháng u mạnh trên những khối ung thư của người, bao gồm đại tràng, vú, tuỵ và tiền liệt tuyến. Thuốc ngăn chặn diễn tiến bệnh di căn và làm giảm tính thấm vi mạch.


Dược động học

Dược động học của bevacizumab được mô tả trên những bệnh nhân có các loại khối u đặc khác nhau. Những liều được thử nghiệm là 0,1-10mg/kg mỗi tuần trong nghiên cứu pha I; 3-20mg/kg mỗi 2 tuần hoặc mỗi 3 tuần trong nghiên cứu pha II; 5mg/kg (mỗi 2 tuần) hoặc 15mg/kg mỗi 3 tuần trong nghiên cứu pha III. Trong tất cả các thử nghiệm lâm sàng, bevacizumab được sử dụng theo đường truyền tĩnh mạch.

Như đã được ghi nhận ở các kháng thể khác, dược động học của bevacizumab được biểu thị rõ qua mô hình kiểu hai khoang. Nhìn chung, trong tất cả các thử nghiệm lâm sàng, bevacizumab có đặc điểm là có độ thanh thải thấp, thể tích giới hạn ở khoang trung tâm (Vc) và thời gian bán thải dài. Điều này giúp cho nồng độ của bevacizumab trong huyết tương ở mức đạt mục tiêu điều trị có thể được duy trì trong các loại chu kỳ điều trị (ví dụ như dùng một lần mỗi 2 tuần hoặc dùng một lần mỗi 3 tuần).

Trong phân tích dược động học theo quần thể, không có sự khác biệt đáng kể về dược động học của bevacizumab liên quan đến tuổi tác (không có sự tương quan giữa độ thanh thải bevacizumab và độ tuổi của đối tượng nghiên cứu [trung vị của độ tuổi là 59, với bách phân vị thứ 5 và thứ 95 của độ tuổi là 37 đến 76 tuổi])

Nồng độ albumin thấp và phosphatase kiềm cao nhìn chung biểu thị độ nặng của bệnh và tổng khối u. Độ thanh thải Bevacizumab cao hơn khoảng 20% ở những đối tượng hoặc có nồng độ albumin huyết thanh thấp hoặc có nồng độ phosphatase kiềm cao, khi so sánh với những đối tượng điển hình có giá trị albumin và/hoặc phosphatase kiềm trung bình.

Phân bố

Giá trị điển hình của thể tích khoang trung tâm (VC) lần lượt là 2,66l và 3,25l trên đối tượng nữ và nam, giá trị này nằm trong phạm vi đã được xác định cho IgG và các kháng thể đơn dòng khác. Sau khi điều chỉnh theo trọng lượng cơ thể, những đối tượng nam giới có VC lớn hơn ( 22%) những đối tượng nữ giới.

Chuyển hóa

Đánh giá chuyển hoá bevacizumab ở thỏ sau một liều truyền tĩnh mạch 125I-bevacizumab đã cho thấy đường biểu diễn chuyển hóa của nó cũng tương tự như đường biểu diễn có thể xảy ra với một phân tử IgG tự nhiên không gắn VEGF.

Đào thải

Dược động học của bevacizumab là một đường tuyến tính theo sự biến thiên của liều dùng từ 1,5 đến 10mg/kg/tuần. Về trung bình, độ thanh thải bevacizumab là 0,207l/ngày đối với nữ và 0,262l/ngày đối với nam. Sau khi điều chỉnh theo trọng lượng cơ thể, đối tượng nam giới có độ thanh thải bevacizumab cao hơn ( 26%) đối tượng nữ giới. Theo mô hình kiểu hai khoang thời gian bán hủy đầu (á) là 1,4 ngày cho cả hai giới; và thời gian bán hủy cuối (â) ước chừng là 20 ngày cho đối tượng nữ điển hình và 19 ngày cho đối tượng nam điển hình.

Dược động học ở các đối tượng đặc biệt

Dược động học của các đối tượng nghiên cứu đã được phân tích để đánh giá tác động của các đặc tính dân số học. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về dược động học của bevacizumab liên quan tới lứa tuổi

Trẻ em và vị thành niên: Dược động học của bevacizumab được nghiên cứu trên một số lượng bệnh nhi hạn chế. Các kết quả thu được cho thấy sự phân bố và thải trừ của bevacizumab tương đương với người trưởng thành có khối u đặc.

Suy thận: Chưa có nghiên cứu nào dược tiến hành để tìm hiểu về dược động học của bevacizumab trên bệnh nhân suy thận do thận không phải là cơ quan chính tham gia vào chuyển hóa và thải trừ bevacizumab.

Suy gan: Chưa có nghiên cúu nào dược tiến hành để tìm hiểu về dược động học của bevacizumab trên bệnh nhân suy gan do gan không phải là cơ quan chính tham gia vào chuyển hóa và thải trừ bevacizumab.

Thuốc Avastin thuộc nhóm danh mục thuốc Điều trị kết hợp

Đối tượng sử dụng Thuốc Avastin (dùng trong trường hợp nào)

Dùng Thuốc Avastin trong trường hợp nào?

Đọc kỹ thông tin chỉ định dùng thuốc của Thuốc Avastin trong tờ hướng dẫn sử dụng.

2. Chống chỉ định của Thuốc Avastin

Chống chỉ định Avastin trên bệnh nhân được biết là quá mẫn cảm với:
- Bất kỳ thành phần nào của thuốc
- Những sản phẩm làm từ tế bào buồng trứng chuột lang Trung Quốc hoặc các kháng thể người tái tổ hợp hay các kháng thể nhân hóa khác.
- Chống chỉ định Avastin trên bệnh nhân có di căn đến hệ thần kinh trung ương chưa được điều trị (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng và phần Các thử nghiệm lâm sàng (Tác dụng ngoại ý).

Đối tượng không được dùng Thuốc Avastin

Không được dùng Thuốc Avastin trong trường hợp nào?

Đọc kỹ thông tin chống chỉ định dùng thuốc của Thuốc Avastin trong tờ hướng dẫn sử dụng.

3. Tương tác với Thuốc Avastin

Tác động của thuốc chống ung thư lên dược động học của bevacizumab.
Dựa trên những kết quả phân tích dược động học dân số, người ta thấy không có tương tác dược động học liên quan đến lâm sàng khi dùng đồng thời hóa trị liệu với Avastin. Không có sự khác biệt về độ thanh thải của Avastin giữa những bệnh nhân sử dụng Avastin đơn trị và những bệnh nhân dùng Avastin phối hợp phác đồ tiêm nhanh IFL (Irinotecan/5-Fluorouracil/Leucovorin). Tác động của những hóa trị liệu khác (như 5-FU-LV, carboplatin-paclitaxel, capecitabin hoặc doxorubicin) lên độ thanh thải Avastin khi dùng phối hợp được xem là không có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
Tác động của bevacizumab lên dược động học của những thuốc chống ung thư khác.
Những kết quả từ nghiên cứu AVF3135g về tương tác thuốc-thuốc, cho thấy bevacizumab không có tác động đáng kể lên dược động học của irinotecan và chất chuyển hoá có hoạt tính của nó là SN38.
Những kết quả từ nghiên cứu NP18587 cho thấy bevacizumab không có tác động đáng kể lên dược động học của capecitabine và các chất chuyển hóa của nó; cũng như lên dược động học của oxaliptatin, và điều này đã được xác định qua giá trị platin tự do và platin toàn phần.
Những kết quả từ nghiên cứu B017705 cho thấy bevacizumab không có tác động đáng kể lên dược động học của interferon alfa-2a.
Những kết quả từ nghiên cứu BO17704 cho thấy bevacizumab không có tác động đáng kể lên dược động học của cisplatin.
Do có sự biến thiên giữa các bệnh nhân và hạn chế của cỡ mẫu thử nghiệm, những kết quả từ nghiên cứu BO17704 không cho phép kết luận chắc chắn về ảnh hưởng của bevacizumab lên dược động học của gemcitabine.
Phối hợp giữa bevacizumab với sunitinib malate
Trong hai nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân ung thư thận đã ghi nhận 7 trong số 19 bệnh nhân có xuất hiện thiếu máu huyết tán bệnh lý vi mạch (microangiopathic hemolytic anemia viết tắt là MAHA) khi điều trị kết hợp bevacizumab (10mg/kg cân nặng mỗi 2 tuần) với sunitinib malate (50mg mỗi ngày).
MAHA là hiện tượng huyết tán có biểu hiện là hồng cầu bị vỡ, thiếu máu và giảm tiểu cầu. Thêm vào đó, một số những bệnh nhân này còn có các biểu hiện tăng huyết áp (bao gồm cả cơn tăng huyết áp), tăng creatinine và các triệu chứng của hệ thần kinh. Tất cả các triệu chứng trên cải thiện khi ngưng sử dụng bevacizumab và sunitinib malate (xem thêm phần Tăng huyết áp, Protein niệu, RPLS trong phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
Xạ trị
Tính an toàn và hiệu quả khi phối hợp xạ trị với Avastin vẫn chưa được xác lập.

4. Tác dụng phụ của Thuốc Avastin

Kinh nghiệm từ các thử nghiệm lâm sàng
Những thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành trên những bệnh nhân bị nhiều loại khối u ác tính khác nhau được điều trị với Avastin, phần lớn là phối hợp với hóa trị. Những dữ liệu về tính an toàn của Avastin được lấy từ các thử nghiệm lâm sàng gồm hơn 3500 bệnh nhân được trình bày trong phần này. Về kinh nghiệm sau khi thuốc ra thị trường, xin xem phần Kinh nghiệm sau khi thuốc lưu hành trên thị trường. Về chi tiết của những nghiên cứu chủ chốt, bao gồm đề cương và những kết quả về hiệu quả chính của nghiên cứu, xin xem phần Những nghiên cứu về hiệu quả/lâm sàng.
Những phản ứng có hại nghiêm trọng nhất của thuốc là:
- Thủng đường tiêu hóa (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng)
- Xuất huyết kể cả xuất huyết phổi/ho ra máu, thường xảy ra ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (UTPKTBN) (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).
- Thuyên tắc huyết khối động mạch (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).
Các phân tích dữ liệu an toàn trên lâm sàng gợi ý rằng tăng huyết áp và protein niệu xảy ra khi điều trị với Avastin có thể phụ thuộc liều.
Các phản ứng có hại của thuốc thường được ghi nhận nhất trong tất cả các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân sử dụng Avastin là: tăng huyết áp, mệt mỏi hoặc suy nhược, tiêu chảy và đau bụng.
Bảng 1 liệt kê tất cả những phản ứng có hại của thuốc do sử dụng Avastin phối hợp với những phác đồ hóa trị khác nhau trong nhiều chỉ định. Những phản ứng này đã xảy ra, hoặc là với ít nhất 2% độ khác biệt so với nhóm chứng (phản ứng mức độ 3-5 theo NCI-CTC [Viện ung thư Quốc Gia-Tiêu chí độc tính thường gặp], hoặc là với ít nhất 10% độ khác biệt so với nhóm chứng (phản ứng mức độ 1-5 theo NCI-CTC), và chúng đã xảy ra ít nhất là ở một trong số các thử nghiệm lâm sàng chủ chốt. Những phản ứng có hại của thuốc được liệt kê trong bảng này nằm trong hai mức sau: Rất hay gặp (≥ 10%) và Hay gặp (≥ 1% - < 10%). Những phản ứng có hại của thuốc cũng đã được phân vào những nhóm phù hợp trong bảng dưới, theo tỷ lệ cao nhất mà chúng được quan sát thấy trong bất kỳ thử nghiệm lâm sàng chủ chốt nào. Trong mỗi nhóm theo tần suất xuất hiện này, những phản ứng có hại của thuốc được trình bày theo thứ tự giảm dần về mức độ nghiêm trọng. Một số những phản ứng có hại là những phản ứng thường được quan sát thấy khi dùng hóa trị (ví dụ như hội chứng loạn cảm giác đỏ lòng bàn tay-bàn chân do capecitabine, và bệnh lý thần kinh cảm giác ngoại biên do paclitaxel hoặc oxaliplatin); tuy nhiên, cũng không loại trừ được khả năng điều trị Avastin đã làm nặng hơn những phản ứng này.
Thông tin thêm về những phản ứng có hại nghiêm trọng và có chọn lọc của thuốc
Những phản ứng ngoại ý dưới đây, được đánh giá độc tính theo NCI-CTC, đã được ghi nhận ở những bệnh nhân được điều trị với Avastin:
Thủng đường tiêu hóa (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng)
Nhiều trường hợp thủng đường tiêu hóa nghiêm trọng đã xảy ra do Avastin. Những trường hợp thủng đường tiêu hóa đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng với tỷ lệ dưới 1% trên những bệnh nhân bị ung thư vú di căn hoặc ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, không vảy; và lên đến 2% trên những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng di căn và ung thư tế bào thận di căn. Cũng đã thấy có trường hợp bị thủng đường tiêu hóa trên bệnh nhân u nguyên bào thần kinh đệm tái phát. Có khoảng 1/3 các trường hợp thủng đường tiêu hóa nặng bị tử vong, chiếm từ 0,2% đến 1% tổng số bệnh nhân được điều trị với Avastin.
Những biến cố này có biểu hiện khác nhau về hình thức và độ nặng, thay đổi từ hơi tự do thấy trên phim X-quang bụng không cản quang, tự hồi phục không cần điều trị; cho đến thủng ruột với áp-xe ổ bụng và tử vong. Trong một vài trường hợp, đã có sẵn tình trạng viêm bên trong ổ bụng, hoặc là do bệnh loét dạ dày, hoại tử khối u, viêm túi thừa hoặc viêm đại tràng do hóa trị. Mối liên hệ nhân quả giữa tiến trình viêm bên trong ổ bụng và thủng đường tiêu hóa do Avastin vẫn chưa được xác lập.
Đường rò (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng)
Sử dụng Avastin có liên quan đến những trường hợp bị đường rò nghiêm trọng, kể cả tử vong
Những đường rò ở đường tiêu hóa đã được báo cáo với tỷ lệ lên đến 2% ở những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng di căn và ít gặp hơn ở những chỉ định khác. Ngoài ra, những đường rò có liên quan đến những cơ quan khác trong cơ thể ngoài hệ tiêu hóa (ví dụ rò khí-thực quản, rò phế quản-màng phổi, rò tiết niệu-sinh dục, rò đường mật) đã được báo cáo với tỷ lệ ít gặp ở những bệnh nhân dùng Avastin trong những nghiên cứu lâm sàng và trong những báo cáo sau khi thuốc ra thị trường.
Các biến cố này đã được báo cáo tại những thời điểm khác nhau trong suốt quá trình điều trị, từ 1 tuần cho đến hơn một năm kể từ lúc bắt đầu dùng Avastin, mà phần lớn là xảy ra trong vòng 6 tháng đầu của điều trị.
Xuất huyết
Trong những thử nghiệm lâm sàng ở mọi chỉ định, tỷ lệ toàn bộ những biến cố chảy máu độ 3-5 theo NCI-CTC là từ 0,4% đến 5% trên những bệnh nhân được điều trị với Avastin, so với tỷ lệ từ 0 đến 2,9% trên những bệnh nhân trong nhóm chứng chỉ dùng hóa trị. Các biến cố xuất huyết ghi nhận được trong các nghiên cứu lâm sàng về Avastin phần lớn là xuất huyết liên quan đến khối u (xem dưới đây) và xuất huyết da niêm mạc nhẹ (ví dụ chảy máu cam)
Xuất huyết liên quan đến khối u:
Xuất huyết phổi/Ho ra máu nặng hoặc ồ ạt đã được ghi nhận chủ yếu trong những nghiên cứu ở những bệnh nhân bị ung thư phối không phải tế bào nhỏ (UTPKTBN). Những yếu tố nguy cơ bao gồm: có tế bào vảy trên mô học, được điều trị với thuốc chữa thấp khớp/kháng viêm, được điều trị với thuốc kháng đông, được xạ trị trước đó, được dùng Avastin, có tiền sử bị xơ vữa động mạch, khối u nằm ở trung tâm và khối u tạo hang trước hoặc trong khi điều trị. Chỉ có hai biến số cho thấy có mối tương quan có ý nghĩa về mặt thống kê đến sự chảy máu là: liệu pháp Avastin và tế bào vảy trên mô học. Những bệnh nhân bị UTPKTBN mà đã được biết là có tế bào vảy trên mô học hoặc có nhiều loại tế bào khác nhau nhưng tế bào vảy chiếm ưu thế trên mô học đã bị loại ra trong những nghiên cứu về sau; trong khi những bệnh nhân với mô học của khối u chưa được biết vẫn được thu nhận.
Ngoại trừ những trường hợp có tế bào vảy chiếm ưu thế trên mô học, ở những bệnh nhân bị UTPKTBN, các biến cố ở mọi mức độ đã được quan sát thấy với tỷ lệ lên đến 9% khi được điều trị với Avastin phối hợp hóa trị, trong khi tỷ lệ này là 5% ở những bệnh nhân chỉ dùng hóa trị đơn thuần. Những biến cố độ 3-5 đã được ghi nhận ở 2,3% số bệnh nhân được điều trị với Avastin phối hợp hoá trị, so với < 1% số bệnh nhân chỉ dùng hóa trị đơn thuần. Xuất huyết phổi/Ho ra máu mức độ nặng hoặc ồ ạt có thể xảy ra đột ngột và có đến 2/3 những trường hợp xuất huyết phổi nặng đã bị tử vong (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).
Xuất huyết đường tiêu hóa, kể cả chảy máu trực tràng và tiêu phân đen đã được báo cáo ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng, và đã được đánh giá là xuất huyết liên quan đến khối u.
Xuất huyết liên quan khối u cũng đã xảy ra trên những loại khối u khác và trên khối u ở những vị trí khác, dù rất hiếm gặp, trong đó có một trường hợp chảy máu hệ thần kinh trung ương (TKTƯ) trên bệnh nhân u nguyên bào thần kinh đệm có di căn đến hệ thần kinh trung ương.
Tỷ lệ chảy máu TKTƯ trên bệnh nhân di căn TKTƯ không được điều trị và có dùng bevacizumab cũng chưa được đánh giá một cách tiền cứu trong các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên. Trong một phân tích thăm dò hồi cứu dựa trên số liệu của 13 thử nghiệm lâm sàng trên các bệnh nhân có các loại khối u khác nhau, trong số bệnh nhân điều trị với bevacizumab có 3 bệnh nhân trong số 91 (3,3%) có di căn tới não có biểu hiện chảy máu TKTƯ (tất cả đều ở mức độ 4), so với 1 bệnh nhân (mức độ 5) trong 96 bệnh nhân (1%) trong nhóm không sử dụng bevacizumab. Trong hai nghiên cứu đang tiến hành điều trị trên các bệnh nhân có di căn não, tính tới thời điểm phân tích an toàn sơ bộ, có 1 trường hợp chảy máu TKTƯ mức độ 2 trên 83 đối tượng điều trị với bevacizumab (1,2%).
Chảy máu nội sọ có thể gặp trên các bệnh nhân u nguyên bào thần kinh đệm tái phát. Trong nghiên cứu AVF3708g, chảy máu TKTƯ (mức độ 1) đã xuất hiện trên 2,4% (2/84) bệnh nhân trong nhóm dơn trị Avastin và 3,8% (3/97) trong nhóm diều trị kết hợp Avastin và irinotecan (ở các mức độ 1,2 và 4) Qua tất cả các thử nghiệm lâm sàng, có 20% - 40% bệnh nhân được điều trị với Avastin Bị chảy máu da niêm mạc. Thường gặp nhất là chảy máu cam độ I theo NCI-CTC, kéo dài dưới 5 phút, tự khỏi không cần can thiệp y tế và không đòi hỏi phải thay đổi phác đồ điều trị Avastin. Những dữ liệu an toàn trên lâm sàng gợi ý rằng tỷ lệ bị chảy máu niêm mạc nhẹ (như chảy máu cam) có thể tùy thuộc vào liều dùng.
Cũng có những biến cố xuất huyết niêm mạc nhẹ ở những vị trí khác,tuy ít gặp hơn, như chảy máu nướu răng và chảy máu âm đạo.
Tăng huyết áp (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng)
Tỷ lệ tăng huyết áp (với mọi mức độ) lên đến 34% ở những bệnh nhân được điều trị với Avastin, trong khi tỷ lệ này là 14% ở những bệnh nhân thuộc nhóm chứng. Trong những thử nghiệm lâm sàng cho tất cả các chỉ định, tỷ lệ toàn bộ các trường hợp tăng huyết áp độ 3-4 theo NCI-CTC ở những bệnh nhân dùng Avastin nằm trong khoảng từ 3,0% đến 17,9%. Tăng huyết áp độ 4 (cơn kịch phát tăng huyết áp) xảy ra ở 1,0% bệnh nhân dùng Avastin, trong khi chỉ xảy ra ở 0,2% bệnh nhân được dùng đơn thuần cùng loại hóa trị.
Tăng huyết áp nói chung có thể được kiểm soát thỏa đáng bằng các thuốc chống tăng huyết áp dùng đường uống như thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc lợi tiểu và thuốc chẹn kênh can-xi. Bệnh nhân hiếm khi phải ngừng điều trị Avastin hoặc phải nhập viện vì tăng huyết áp.
Rất hiếm trường hợp bệnh lý não do tăng huyết áp được báo cáo, vài trường hợp trong số này đã bị tử vong (xem thêm phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng). Nguy cơ tăng huyết áp khi sử dụng Avastin không tương quan với các đặc điểm ban đầu của bệnh nhân, bệnh đi kèm hoặc thuốc điều trị phối hợp.
Thuyên tắc huyết khối
- Thuyên tắc huyết khối động mạch
Trên những bệnh nhân được điều trị với Avastin ở tất cả các chỉ định, đã ghi nhận tăng tỉ lệ biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch, bao gồm tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, cơn thoáng thiếu máu não, và các biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch khác.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, tỷ lệ toàn bộ đã lên đến 3,8% trong nhóm dùng Avastin so với 1,7% trong nhóm chứng dùng hóa trị. Đã có 0,8% bệnh nhân dùng Avastin phối hợp hóa trị liệu bị tử vong và tỷ lệ này ở những bệnh nhân chỉ dùng hóa trị đơn thuần là 0,5%. Tai biến mạch máu não (kể cả cơn thoáng thiếu máu não) đã xảy ra tới 2,3% số bệnh nhân được điều trị Avastin so với 0,5% số bệnh nhân trong nhóm chứng. Nhồi máu cơ tim đã xảy ra ở 1,4% số bệnh nhân được điều trị Avastin so với 0,7% số bệnh nhân trong nhóm chứng.
Trong thử nghiệm lâm sàng AVF2192g, những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng di căn mà không được điều trị với irinotecan đã được đưa vào nghiên cứu. Trong thử nghiệm này, những biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch đã được quan sát thấy ở 11% (11/100) số bệnh nhân được điều trị Avastin, so với 5,8% (6/104) số bệnh nhân trong nhóm chứng sử dụng hoá trị.
- Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
Trong những thử nghiệm lâm sàng cho mọi chỉ định, tỷ lệ toàn bộ các biến cố thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch nằm trong khoảng từ 2,8% đến 17,3% trong nhóm bệnh nhân dùng Avastin, so với từ 3,2% đến 15,6% trong nhóm chứng dùng hóa trị. Các biến cố thuyên tắc huyết khối tĩnh mạc bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi.
Trong những thử nghiệm lâm sàng then chốt ở những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, đã ghi nhận sự tăng tỷ lệ toàn bộ các biến cố thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch mức độ 3-5. Tỷ lệ này lên đến 5,6% ở nhóm bệnh nhân dùng Avastin so với 3,2% ở nhóm chứng dùng hóa trị liệu. Một trường hợp (0,2%) trong nhóm bệnh nhân dùng Avastin đã tử vong trong khi không có trường hợp tử vong nào ở nhóm dùng carboplatin-paclitaxel.
Những bệnh nhân đã từng bị biến cố thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, nếu được điều trị Avastin phối hợp với hóa trị, sẽ có nguy cơ bị tái phát cao hơn so với khi được điều trị bằng hóa trị đơn thuần.
Suy tim sung huyết
Trong những thử nghiệm lâm sàng với Avastin, suy tim sung huyết đã được quan sát thấy ở tất cả các chỉ định điều trị ung thư được nghiên cứu cho đến hiện nay, nhưng phần lớn là xảy ra ở những bệnh nhân bị ung thư vú di căn. Trong những nghiên cứu pha III (AVF2119g và E2100) trên bệnh nhân ung thư vú di căn, thấy có sự tăng suy tim sung huyết từ mức độ 3 trở lên ở những bệnh nhân được điều trị với Avastin. Tỷ lệ suy tim sung huyết ở những bệnh nhân được điều trị với Avastin biến thiên từ 2,9% đến 3,5% trong khi tỷ lệ này ở nhóm chứng là 1,4%. Phần lớn những bệnh nhân này cho thấy có sự cải thiện về triệu chứng và/hoặc chức năng thất trái sau điều trị nội khoa thích hợp.
Trong hầu hết các thử nghiệm lâm sàng với Avastin, không có thông tin về nguy cơ bị suy tim sung huyết ở những bệnh nhân đang bị suy tim sung huyết độ II-IV theo NYHA, vì những bệnh nhân này đã bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng.
Việc điều trị với anthracycline và/hoặc xạ trị vào thành ngực trước đó có thể là những yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim sung huyết (Xem phần Chú ý đề phòng và Thận trong lúc dùng).
Quá trình lành vết thương (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trong lúc dùng)
Vì Avastin có thể tác động bất lợi lên quá trình lành vết thương, những bệnh nhân vừa qua đại phẫu trong vòng 28 ngày trước khi bắt đầu điều trị Avastin đã bị loại không được tham gia vào những thử nghiệm pha III.
Trong tất cả những thử nghiệm lâm sàng về ung thư đại trực tràng di căn, không ghi nhận tăng nguy cơ bị chảy máu hậu phẫu hoặc bị những biến chứng trong quá trình lành vết thương trên những bệnh nhân vừa được đại phẫu trong vòng từ 28 đến 60 ngày trước khi bắt đầu dùng Avastin. Đã ghi nhận được được sự tăng tỷ lệ bị chảy máu hậu phẫu hoặc bị những biến chứng trong quá trình lành vết thương xảy ra trong vòng 60 ngày sau khi đại phẫu, nếu đến khi phẫu thuật bệnh nhân vẫn được điều trị với Avastin. Tỷ lệ này biến thiên từ 10% (4/40) đến 20% (3/15).
Trong ung thư vú di căn và tái phát tại chỗ, những biến chứng trong quá trình lành vết thương độ 3-5 đã xảy ra ở 1,1% số bệnh nhân được điều trị với Avastin so với 0,9% ở nhóm chứng. Trong nghiên cứu trên bệnh nhân u tế bào thần kinh đệm tái phát (nghiên cứu AVF3708g) tỷ lệ bị biến chứng lành vết thương sau phẫu thuật là 3,6% (hở vết mở sọ hoặc rò dịch não tủy) trong nhóm bệnh nhân sử dụng Avastin đơn thuần và 1,3% trong nhóm kết hợp Avastin với irinotecan.
Đạm niệu (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng)
Trong những thử nghiệm lâm sàng, đạm niệu đã được báo cáo trong khoảng từ 0,7% đến 38% bệnh nhân được điều trị Avastin. Về mức độ trầm trọng, đạm niệu có thể thay đổi từ không có triệu chứng lâm sàng, thoáng qua, đạm niệu dạng vết cho đến hội chứng thận hư. Đạm niệu độ 3 được ghi nhận ở < 3% bệnh nhân được điều trị: tuy vậy, đối với những bệnh nhân bị ung thư tế bào thận di căn và/hoặc tiến triển, tỷ lệ này lên đến 7%. Đạm niệu độ 4 (hội chứng thận hư) đã được quan sát thấy ở 1,4% bệnh nhân được điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng về Avastin, đạm niệu không kèm theo rối loạn chức năng thận và hiếm khi cần phải ngừng điều trị Avastin.
Bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp có thể tăng nguy cơ đạm niệu khi điều trị với Avastin. Có bằng chứng gợi ý đạm niệu độ 1 có thể liên quan với liều lượng Avastin. Nên tiến hành xét nghiệm phát hiện đạm niệu trước khi bắt đầu điều trị Avastin. Trong hầu hết các thử nghiệm lâm sàng, mức đạm niệu ≥ 2g/24giờ dẫn đến việc tạm ngưng Avastin cho đến khi hồi phục về mức < 2g/24 giờ.
Người già
Trong những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, những bệnh nhân ở độ tuổi > 65 thường tăng nguy cơ bị các biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch bao gồm tai biến mạch máu não, cơn thoáng thiếu máu não và nhồi máu cơ tim so với những bệnh nhân ở độ tuổi ≤ 65 được điều trị với Avastin (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng và Tác dụng ngoại ý - Kinh nghiệm từ các thử nghiệm lâm sàng, phần Thuyên tắc huyết khối). Các phản ứng khác với tần suất cao hơn ở những bệnh nhân trên 65 tuổi là giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu độ 3-4; giảm bạch cầu trung tính ở mọi mức độ, tiêu chảy, buồn nôn, nhức đầu và mệt mỏi.
Không thấy có sự gia tăng tỉ lệ các phản ứng khác bao gồm thủng đường tiêu hóa, các biến chứng lành vết thương, tăng huyết áp, đạm niệu, suy tim sung huyết và xuất huyết trên bệnh nhân cao tuổi (> 65 tuổi) sử dụng Avastin so với những bệnh nhân ở độ tuổi ≤ 65 được điều trị với Avastin.

5. Cách dùng thuốc Avastin

Mỗi loại thuốc, dược phẩm sản xuất theo dạng khác nhau và có cách dùng khác nhau theo đường dùng.

Các đường dùng thuốc thông thường phân theo dạng thuốc là: thuốc uống, thuốc tiêm, thuốc dùng ngoài và thuốc đặt.

Đọc kỹ hướng dẫn cách dùng của Thuốc Avastin đã ghi trên tờ hướng dẫn sử dụng thuốc.

Không tự ý sử dụng Thuốc Avastin theo đường dùng khác mà không thấy ghi trên tờ hướng dẫn sử dụng của Thuốc Avastin.

6. Liều lượng dùng Thuốc Avastin

Nguyên tắc chung

Avastin nên được chuẩn bị bởi nhân viên y tế sử dụng kỹ thuật vô khuẩn (xem phần Các hướng dẫn đặc biệt trong sử dụng, thao tác và hủy bỏ thuốc).

Liều khởi đầu Avastin nên được truyền tĩnh mạch trong vòng 90 phút. Nếu lần truyền đầu dung nạp tốt, lần truyền lần thứ hai có thể truyền trong 60 phút. Nếu lần truyền trong 60 phút được dung nạp tốt, những lần truyền tiếp theo có thể truyền trong vòng 30 phút.

Không nên giảm liều Avastin khi xảy ra các biến cố bất lợi. Nếu có yêu cầu, hoặc ngừng hẳn hoặc tạm ngưng Avastin theo như hướng dẫn ở phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng.


Ung thư đại trực tràng di căn (UTĐTTdc)

Liều khuyên dùng của Avastin theo đường truyền tĩnh mạch như sau:

Điều trị bước một: 5mg/kg cân nặng, một lần mỗi 2 tuần; hoặc 7,5mg/kg cân nặng, một lần mỗi 3 tuần.

Điều trị bước hai: 10mg/kg cân nặng, một lần mỗi 2 tuần; hoặc 15mg/kg cân nặng, một lần mỗi 3 tuần.

Nên tiếp tục điều trị Avastin cho đến khi bệnh tiến triển.

Ung thư vú tái phát khu trú hoặc ung thư vú di căn (UTVdc)

Liều khuyên dùng của Avastin theo đường truyền tĩnh mạch là 10mg/kg cân nặng, một lần mỗi 2 tuần; hoặc 15mg/kg cân nặng, một lần mỗi 3 tuần.

Hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân UTVdc cũng đã được chứng minh khi sử dụng ở liều 7,5mg/kg cân nặng truền tĩnh mạch một lần mỗi 3 tuần. Chi tiết xin xem thêm phần Các nghiên cứu về hiệu quả trên lâm sàng.

Ung thư vú tái phát tại chỗ hoặc ung thư vú di căn (UTVdc)

Nên tiếp tục điều trị Avastin cho đến khi bệnh tiến triển.

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, tiến triển, di căn hoặc tái phát (UTPKTBN)

Avastin được dùng để bổ sung vào phác đồ hóa trị có platin trong 6 chu kỳ điều trị, sau đó dùng Avastin đơn trị cho đến khi bệnh tiến triển.

Liều khuyên dùng của Avastin để bổ sung cho phác đồ hóa trị có cisplatin là 7,5mg/kg cân nặng, truyền tĩnh mạch một lần mỗi 3 tuần.

Liều khuyên dùng của Avastin để bổ sung cho phác đồ hóa trị có carboplatin là 15mg/kg cân nặng, truyền tĩnh mạch một lần mỗi 3 tuần.

Ung thư tế bào thận tiến triển và/hoặc di căn (UTTBTdc)


Liều khuyên dùng của Avastin theo đường truyền tĩnh mạch là 10mg/kg cân nặng, một lần mỗi 2 tuần.

U nguyên bào thần kinh đệm - U tế bào thần kinh đệm ác tính (Giai đoạn IV-WHO)

Liều khuyên dùng là truyền tĩnh mạch 10mg/kg cân nặng một lần mỗi 2 tuần hoặc 15mg/kg cân nặng một lần mỗi 3 tuần.

Nên tiếp tục điều trị Avastin cho đến khi bệnh tiến triển.

Các hướng dẫn sử dụng liều đặc biệt


Trẻ em và thanh thiếu niên: Tính an toàn và hiệu quả của Avastin trên trẻ em và thanh thiếu niên chưa được nghiên cứu.

Người già: Không cần phải điều chỉnh liều dùng cho người già.

Suy thận: Tính an toàn và hiệu quả của Avastin chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân suy thận.

Suy gan: Tính an toàn và hiệu quả của Avastin chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân suy gan.

Các hướng dẫn đặc biệt trong Sử dụng, Thao tác và Thải bỏ thuốc

Dịch truyền Avastin không được truyền cùng hoặc pha lẫn với dung dịch dextrose hoặc dung dịch glucose (xem phần Tính không tương thích)

Không được tiêm tĩnh mạch nhanh.

Avastin nên được nhân viên y tế chuẩn bị với kỹ thuật vô khuẩn. Rút lượng bevacizumab cần thiết và pha loãng trong một thể tích cần dùng dung dịch chloride natri 0,9%. Nồng độ dung dịch bevacizumab cuối cùng nên nằm trong khoảng từ 1,4 đến 16,5mg/ml.

Bỏ phần thuốc còn lại trong lọ, vì sản phẩm không có chất bảo quản. Các sản phẩm thuốc sử dụng đường tiêm truyền đều nên được kiểm tra bằng mắt thường xem có cặn và đổi màu hay không trước khi sử dụng.

7. Quá liều, quên liều, khẩn cấp

Xử lý trong trường hợp khẩn cấp hoặc quá liều

Trong các trường hợp khẩn cấp hoặc dùng quá liều khi sử dụng Thuốc Avastin, nếu có biểu hiện nguy hiểm cần gọi ngay cho Trung tâm cấp cứu 115 hoặc đến Cơ sở Y tế địa phương gần nhất.

Người thân cần cung cấp cho bác sĩ đơn thuốc trong đó có Thuốc Avastin đang dùng, các thuốc đang dùng bao gồm cả thuốc kê toa và thuốc không kê toa.

Nên làm gì nếu quên một liều

Trong trường hợp bạn quên một liều Thuốc Avastin khi đang trong quá trình dùng thuốc, hãy dùng càng sớm càng tốt(thông thường có thể uống thuốc cách 1-2 giờ so với giờ được bác sĩ yêu cầu).

Tuy nhiên, nếu thời gian đã gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm đã quy định.

Lưu ý không dùng gấp đôi liều lượng Thuốc đã quy định.

8. Cách Bảo quản Thuốc Avastin

Nên bảo quản Thuốc Avastin như thế nào

Nồng độ, hàm lượng, hoạt chất thuốc của Thuốc Avastin sẽ bị ảnh hưởng nếu bảo thuốc không tốt hoặc khi quá hạn sử dụng dẫn đến nguy hại khi sử dụng.

Đọc kỹ thông tin bảo quản và hạn sử dụng của Thuốc Avastin đã được ghi trên vỏ sản phẩm và tờ hướng dẫn sử dụng thuốc.

Thông thường các thuốc và Thuốc Avastin sẽ được bảo quản ở nhiệt độ phòng, tránh ẩm và ánh sáng.

Khi các loại thuốc và đặc biệt là Thuốc Avastin bị quá hạn hoặc không thể sử dụng được thì bạn nên tham khảo ngay với bác sĩ, dược sĩ hoặc đơn vị xử lý rác để có cách tiêu hủy thuốc an toàn.

Không nên vứt các loại thuốc và đặc biệt là Thuốc Avastin vào toilet hoặc đường ống dẫn nước trừ khi có yêu cầu của người có chuyên môn hoặc thẩm quyền.

Lưu ý khác về bảo quản Thuốc Avastin

Lưu ý không để Thuốc Avastin ở tầm với của trẻ em, hãy để tránh xa thú nuôi.

Trước khi dùng Thuốc Avastin, bạn cần kiểm tra lại hạn sử dụng ghi trên vỏ sản phẩm, đặc biệt với những dược phẩm đã và đang dự trữ tại nhà.

9. Thận trọng lưu ý khi dùng thuốc Avastin

Cảnh báo và Thận trọng chung
Thủng đường tiêu hóa
Bệnh nhân có thể tăng nguy cơ thủng đường tiêu hóa khi được điều trị Avastin (xem phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý]) Nên ngừng hẳn Avastin trên những bệnh nhân bị thủng đường tiêu hóa.
Đường rò (xem thêm phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý])
Bệnh nhân có thể bị tăng nguy cơ xuất hiện đường rò khi được điều trị Avastin (xem phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý]).
Nên ngừng hẳn Avastin trên những bệnh nhân bị rò khí-thực quản hoặc bất kỳ đường rò độ 4 nào. Có rất ít thông tin về việc tiếp tục dùng Avastin cho những bệnh nhân bị các đường rò khác. Trong trường hợp đường rò nội tạng không xuất phát từ đường tiêu hóa, nên ngưng dùng Avastin.
Xuất huyết (xem thêm phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý])
Bệnh nhân được điều trị với Avastin sẽ tăng nguy cơ bị xuất huyết, đặc biệt là xuất huyết liên quan khối u (xem phần Xuất huyết). Nên ngưng hẳn Avastin trên bệnh nhân có chảy máu độ 3 hoặc 4 trong quá trình điều trị với Avastin.
Nguy cơ xuất huyết hệ thần kinh trung ương trên những bệnh nhân có di căn tới hệ thần kinh trung ương sử dụng Avastin chưa được đánh giá đầy đủ, bởi vì những bệnh nhân này bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng (xem phần Xuất huyết). Bệnh nhân cần được theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng của xuất huyết thần kinh trung ương và nên dừng điều trị Avastin nếu có xuất huyết nội sọ.
Không có thông tin về tính an toàn của Avastin trên những bệnh nhân có cơ địa dễ chảy máu bẩm sinh, bệnh đông máu mắc phải hoặc trên những bệnh nhân đang sử dụng đủ liều thuốc chống đông để điều trị thuyên tắc huyết khối trước khi khởi trị Avastin, vì những bệnh nhân như vậy đã bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng. Vì vậy, nên thận trọng trước khi bắt đầu điều trị Avastin ở những bệnh nhân này. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch trong khi điều trị với Avastin dường như không bị tăng tỉ lệ chảy máu nặng khi được điều trị đủ liều warfarin và Avastin đồng thời.
Xuất huyết phổi/Ho ra máu (xem phần Tác dụng ngoại ý
Những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được điều trị với Avastin có thể có nguy cơ bị xuất huyết phổi/ho ra máu nghiêm trọng, và một số trường hợp đã tử vong (xem phần Xuất huyết). Không nên dùng Avastin cho những bệnh nhân vừa mới bị xuất huyết phổi/ho ra máu (> 1/2 thìa cà-phê máu tươi)
Tăng huyết áp
Ghi nhận tăng tỉ lệ tăng huyết áp trên bệnh nhân được điều trị với Avastin. Các dữ liệu an toàn lâm sàng gợi ý tỉ lệ tăng huyết áp có thể phụ thuộc vào liều. Tăng huyết áp đã có từ trước phải được kiểm soát đầy đủ trước khi bắt đầu điều trị với Avastin. Không có thông tin về tác động của Avastin trên bệnh nhân tăng huyết áp không được kiểm soát lúc bắt đầu điều trị Avastin. Nên theo dõi huyết áp trong suốt quá trình điều trị với Avastin (xem thêm phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý]).
Trong phần lớn các trường hợp, tăng huyết áp đều có thể được kiểm soát thỏa đáng bằng cách dùng thuốc hạ huyết áp thông thường một cách phù hợp cho từng bệnh nhân. Nếu tăng huyết áp nặng không thể kiểm soát được với các thuốc hạ huyết áp; hoặc nếu bệnh nhân lên cơn tăng huyết áp hoặc bị bệnh não do tăng huyết áp, nên ngưng sử dụng Avastin (xem phần Kinh nghiệm từ các thử nghiệm lâm sàng và Kinh nghiệm sau khi thuốc lưu hành trên thị trường).
Hội chứng bệnh lý chất trắng não sau có thể hồi phục được (RPLS)
Đã có một số trường hợp hiếm gặp những bệnh nhân đang được điều trị với Avastin bị các dấu hiệu và triệu chứng phù hợp với hội chứng bệnh lý chất trắng não sau có thể hồi phục được (RPLS). Đây là một rối loạn thần kinh hiếm gặp, thể hiện bằng các dấu hiệu và triệu chứng sau: co giật, đau đầu, trạng thái tâm thần thay đổi, rối loạn thị giác, hoặc mù vỏ não, có hoặc không kèm cao huyết áp. Cần phải có hình ảnh não để xác định chẩn đoán RPLS. Đối với những bệnh nhân bị RPLS, việc điều trị các triệu chứng đặc hiệu bao gồm kiểm soát huyết áp được khuyến cáo cùng với việc ngừng Avastin. Tính an toàn của việc tái điều trị Avastin ở những bệnh nhân đã bị RPLS chưa được biết (xem phần Kinh nghiệm sau khi thuốc lưu hành trên thị trường).
Thuyên tắc huyết khối động mạch
Trong những thử nghiệm lâm sàng, tỉ lệ biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch bao gồm tai biến mạch máu não, cơn thoáng thiếu máu não (TIA) và nhồi máu cơ tim (NMCT) trên những bệnh nhân sử dụng Avastin phối hợp với hóa trị cao so với những bệnh nhân sử dụng hoá trị đơn thuần.
Nên ngưng Avastin vĩnh viễn ở những bệnh nhân bị biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch.
Bệnh nhân sử dụng Avastin phối hợp với hóa trị có tiền sử bị thuyên tắc huyết khối động mạch hoặc tuổi trên 65 sẽ tăng nguy cơ bị biến cố thuyên tắc huyết khối động mạch trong quá trình điều trị với Avastin. Nên thận trọng khi điều trị Avastin trên những bệnh nhân này.
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (xem phần Tác dụng ngoại ý)
Bệnh nhân có nguy cơ bị biến cố thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch kể cả thuyên tắc phổi trong quá trình điều trị với Avastin. Nên ngưng Avastin ở những bệnh nhân bị thuyên tắc phổi nặng dọa tử vong (độ 4). Những bệnh nhân bị độ 3 trở xuống cần phải được theo dõi kỹ.
Suy tim sung huyết (xem phần Tác dụng ngoại ý)
Những biến cố phù hợp với suy tim sung huyết đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng. Những triệu chứng thay đổi từ giảm phân suất tống máu thất trái không có triệu chứng đến suy tim sung huyết có triệu chứng, cần phải được điều trị hoặc nhập viện.
Phần lớn bệnh nhân bị suy tim sung huyết đều có ung thư vú di căn và được điều trị trước đó với anthracyclines, được xạ trị thành ngực trái trước đó hoặc có những yếu tố nguy cơ dễ bị suy tim sung huyết khác như bị bệnh tim mạch vành từ trước hoặc được điều trị đồng thời với các thuốc gây độc cho tim.
Cần phải thận trọng khi điều trị Avastin cho những bệnh nhân bị bệnh tim mạch nặng hoặc bị suy tim sung huyết sẵn từ trước.
Giảm bạch cầu trung tính
So với những bệnh nhân chỉ dùng hóa trị liệu đơn thuần, người ta thấy có sự tăng tỷ lệ giảm bạch cầu trung tính nặng, sốt giảm bạch cầu trung tính hoặc nhiễm trùng có giảm bạch cầu trung tính nặng (kể cả một vài trường hợp tử vong) ở những bệnh nhân được điều trị với một số phác đồ hóa chất gây độc cho tủy cùng với Avastin so với hóa trị đơn thuần.
Quá trình lành vết thương
Avastin có thể có tác động ngoại ý trên quá trình lành vết thương. Nên chờ ít nhất 28 ngày sau khi đại phẫu hoặc cho đến khi vết thương phẫu thuật đã lành hoàn toàn mới bắt đầu điều trị Avastin. Đối với bệnh nhân có biến chứng trong quá trình lành vết thương khi điều trị Avastin, nên ngưng sử dụng Avastin cho đến khi vết thương lành hoàn toàn. Nên tạm ngưng điều trị Avastin trong những trường hợp phẫu thuật theo chương trình (xem phần Các thử nghiệm lâm sàng [Tác dụng ngoại ý]).
Đạm niệu (xem phần Tác dụng ngoại ý)
Trong những thử nghiệm lâm sàng, tỷ lệ xuất hiện đạm niệu ở những bệnh nhân dùng Avastin phối hợp với hóa trị liệu cao hơn so với những bệnh nhân chỉ dùng hóa trị liệu đơn thuần. Đạm niệu độ 4 (hội chứng thận hư) ít gặp ở những bệnh nhân dùng Avastin. Nên ngừng Avastin trên bệnh nhân bị đạm niệu độ 4.
Tác động lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa tiến hành nghiên cứu về tác động của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc. Tuy nhiên, không có bằng chứng về việc điều trị Avastin làm tăng biến cố bất lợi có thể dẫn đến giảm khả năng lái xe và vận hành máy móc hoặc suy giảm khả năng trí tuệ.
Sử dụng ở những đối tượng đặc biệt
Sử dụng ở trẻ em
Tính an toàn và hiệu quả của Avastin trên trẻ em và thanh thiếu niên vẫn chưa được nghiên cứu.
Sử dụng ở người già
Tham khảo phần Thuyên tắc huyết khối động mạch.
Bệnh nhân suy thận
Tính an toàn và hiệu quả của Avastin trên bệnh nhân bị suy thận vẫn chưa được nghiên cứu.
Bệnh nhân suy gan
Tính an toàn và hiệu quả của Avastin trên bệnh nhân bị suy gan vẫn chưa được nghiên cứu.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Phụ nữ có thai
Sự sinh mạch được biết là có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của bào thai. Ức chế sinh mạch do sử dụng Avastin có thể gây hậu quả xấu trong thai sản.
Không có nghiên cứu kiểm chứng tốt và đầy đủ trên phụ nữ có thai (xem phần Tính gây quái thai) Người ta biết rằng IgG qua được hàng rào nhau thai, và Avastin có thể ức chế sự sinh mạch ở bào thai. Vì vậy, không nên sử dụng Avastin trong quá trình mang thai. Những phụ nữ có khả năng mang thai nên áp dụng các biện pháp tránh thai thích hợp trong quá trình điều trị Avastin. Dựa trên tính toán về dược động học, nên tiếp tục dùng các biện pháp tránh thai trong ít nhất 6 tháng kể từ khi sử dụng liều Avastin cuối cùng.
Bà mẹ đang cho con bú
Không biết liệu bevacizumab có tiết qua sữa mẹ hay không. Vì IgG của mẹ được tiết qua sữa mẹ và Avastin có thể gây hại cho sinh trưởng và phát triển của trẻ, nên khuyên phụ nữ ngưng cho con bú trong khi điều trị Avastin và không cho con bú trong ít nhất 6 tháng kể từ liều Avastin cuối cùng.

10. Giá bán và nơi bán Thuốc Avastin

Thuốc Avastin có giá bán là bao nhiêu tiền?

Giá bán Thuốc Avastin có thể sẽ khác nhau ở từng thời điểm và tại các cơ sở kinh doanh thuốc khác nhau.

Liên hệ nhà thuốc, phòng khám, bệnh viện hoặc các cơ sở y tế có giấy phép kinh doanh thuốc để cập nhật chính xác giá Thuốc Avastin.

Tham khảo giá Thuốc Avastin do doanh nghiệp xuất/doanh nghiệp đăng ký công bố.

Những nơi bán Thuốc Avastin

Mua Thuốc Avastin ở đâu?

Nếu bạn có đơn thuốc đã kê toa và bạn đang cần mua Thuốc Avastin, bạn có thể mua thuốc online hoặc các nhà phân phối dược mỹ phẩm để mua sỉ Thuốc Avastin.

Với cá nhân có thể mua online các thuốc không kê toa hoặc các thực phẩm chức năng.

Để mua trực tiếp thuốc Avastin, bạn nên đến các Nhà thuốc tư nhân, nhà thuốc bệnh viện, nhà thuốc phòng khám hoặc các cơ sở được phép kinh doanh thuốc gần nhất.

Trên đây là thông tin giúp bạn hiểu rõ Thuốc Avastin là thuốc gì?

Hướng dẫn sử dụng Thuốc Avastin.

Bài viết về Thuốc Avastin được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau và mang tính tham khảo.

Liên hệ hoặc bình luận ở dưới để giúp chúng tôi cải thiện nội dung bài viết tốt hơn!

Lưu ý: Thông tin về Thuốc Avastin chỉ mang tính chất tham khảo. Bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia, bác sĩ, chuyên viên y tế trước khi sử dụng!

Mạng Y Tế
Nguồn: https://amp.mangyte.vn/thuoc-avastin-12000.html