Quan Cư Nhất Phẩm - Tây bắc vọng - Quan Cư Nhất Phẩm

Quan Cư Nhất Phẩm

Tác giả : Chưa rõ
Chương 841 : Quan Cư Nhất Phẩm - Tây bắc vọng

Từ khi súng xuất hiện vào thế kỷ mười lăm, thời đại vũ khí lạnh trải qua mấy nghìn năm đã đi tới hồi kết.

Sau khi chứng kiến uy lực cùng sự ưu việt của loại vũ khí mới, rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, bao gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản, đều không ngừng cải tiến thiếu sót của nó, cũng trang bị cho quân đội rất nhiều.

Đến giữa thế kỷ mười sáu, trong vài chục năm, quân đội Âu Châu đã sử dụng rộng rãi súng châm ngòi, gồm cả bộ binh và kỵ binh.



Lúc này quân đội Âu Châu chủ yếu là bộ binh bắn súng, trường mâu binh thì trở thành người yểm hộ chính cho bộ binh bắn súng.

Kỵ sĩ khôi giáp hoa lệ thời Trung cổ cùng trường cung thủ của Anh đã qua đi.

Thực dân Tây Ban Nha cùng Bồ Đào Nha ỷ vào súng kíp, đại pháo, dùng trăm nghìn người được trang bị đầy đủ có thể đánh chiếm được một quốc gia, đánh tan mấy vạn dân mông muội bản xứ.

Đây là điều tất nhiên của lịch sử, là sự quá độ từ vũ khí lạnh lên vũ khí nóng.



Với hiểu biết hai kiếp người của Thẩm Mặc thì điều này chẳng có gì phải nghi ngờ.

Nhưng điều y thấy vô cùng hoang mang, chính là vì sao vũ khí nóng đã được sử dụng ở hơn năm thành của Minh quân, nhưng lại thảm bại dưới trường mâu cung tiễn của kỵ binh Hậu Kim chứ?



Mãi đến khi nắm rõ trang bị của Đại Minh, đồng thời so sánh với với hỏa khí của phương tây, Thẩm Mặc mới dần hiểu rõ, quy luật bản thân nó không sai, mà chính là bản thân Đại Minh sai.

Sự quá độ lên vũ khí nóng, không phải chỉ là sự tiến hóa của vũ khí trong chiến tranh, mà còn phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và công nghiệp.

Không thể nghi ngờ, nếu không có hiểu biết về vật lý học, không có quy trình sản xuất chính xác đến từng milimet, thì không thể chế tạo được một khẩu súng tiêu chuẩn, đương nhiên cũng vì thế không thể đại triển thần uy của nó trên chiến trường.



Trận chiến của công ty Nam Dương tại Manila đã cho thấy rõ điều này.

Lúc đó có đến mấy trăm binh sĩ đã qua huấn luyện của Đại Minh, dùng ưu thế nhân số áp đảo tuyệt đối mà đánh toàn quyền Tây Ban Nha.

Không ngờ lại bị đối phương có hơn mười khẩu súng ngoan cường ngăn cản.

Sau trận đánh, trong chiến báo truyền về có nói, tử thương của hai bên là một so với ba mươi, sự sát thương kinh khủng này của súng kíp thần cơ doanh của Đại Minh cũng không thể nào tạo được.



Ngoài nguyên nhân người Tây Ban Nha được huấn luyện bài bản, xạ thuật cao cường, thì còn có một nguyên nhân quan trọng, chính là bọn họ sử dụng loại súng có chất lượng hơn xa súng ống của Đại Minh.



Sau đó Thẩm Mặc đem súng ống thu được mang tới một nửa cho tổng xưởng công binh, để cho các công tượng mắt cao hơn đầu ở đây nghiên cứu.

Một tháng sau, khi Thẩm Mặc quay lại tổng xưởng, đã thấy đầu bọn họ cúi thấp hơn trước, không thể nghi ngờ, so với các loại súng của Đại Minh sản xuất, thì những súng này không bị nổ trong khi châm ngòi, tránh cho binh sĩ khỏi nỗi sợ vỡ đầu khi châm lửa, hơn nữa nòng súng cũng không bị trước to sau nhỏ, bên trong nhẵn nhụi, viên đạn bắn ra ngoài đương nhiên tốc độ nhanh hơn nhiều, do đó xạ thủ sẽ tin cậy mà gia tăng luyện tập, đề cao xạ thuật.



Khi Thẩm Mặc nói đây chỉ là loại súng dùng cho thuộc địa của Tây Ban Nha, chứ chưa phải loại súng dùng cho cận vệ vương thất, thì các công tượng này cuối cùng cũng vứt bỏ kiêu ngạo của bản thân, bằng lòng thay đổi kỹ thuật sản xuất.

Vì vậy Thẩm Mặc bỏ ra một số tiền lớn mời chuyên gia cùng kỹ sư từ Âu Châu về, để dạy lại từ đầu các nguyên lý, quy trình sản xuất cho các công tượng.



Tất cả các ý nghĩ đều phải dựa trên cơ sở khoa học, như binh khí cục trước kia vì muốn biểu diễn tư tưởng kỳ diệu của mình, đã sản xuất ra loại súng năm nòng, để trưng bày còn được, chứ mang ra chiến trường thì chỉ thuần túy là thứ coi mạng người như cỏ rác.



Lạc hậu liền bị ăn đòn! Nhưng còn đáng sợ hơn cả lạc hậu, chính là đã lạc hậu mà còn không thừa nhận! Thẩm Mặc yêu cầu tổng xưởng công binh phải vứt bỏ tất cả các ảo tưởng phi thực tế, chịu khó học tốt cái cơ bản từ các chuyên gia Âu Châu, ban đầu là bắt chước, sau đó thì sản xuất ra súng ống đạt chuẩn.



Cứ như thế sau một thời gian, công tượng cũng đã chế ra 'Long Khánh thức bộ thương'.



-oOo-

- Loại 'Long Khánh thức bộ thương' này khi siết cò, sẽ tác động tới lò xo, làm cò phía sau tác động lên đá lửa, tạo thành tia lửa châm mồi cho đạn, bắn viên đạn ra.


Ngô Đoái cầm một khẩu súng trường, dẫn theo các vị tướng lĩnh ra bên ngoài, thành thạo biểu diễn nói:


- Dĩ nhiên súng này so với điểu súng tốt hơn rất nhiều.

Ngoại trừ xạ trình thì ưu điểm quan trọng của nó, chính là bình quân cứ một trăm lần châm lửa, có thể đạt tám mươi lăm lần thành công.



Lời vừa nói xong dẫn đến một trận xuýt xoa, bởi vì nhược điểm của điểu súng, chính là khả năng thành công của mỗi lần châm lửa chỉ đạt được năm phần, mười lần có tới năm lần không cháy.

Nếu như có thể tăng lên thành tám phần rưỡi, thì chẳng phải uy lực được tăng lên ba phần rưỡi hay sao?



Hơn nữa cho dù một lần không cháy, thì với loại 'Long Khánh thức bộ thương' này mà nói, chỉ cần siết cò lại lần nữa thì có thể bắn tiếp lần hai, gần như không có thời gian trễ.



- Ngoài điều đó ra.


Ngô Đoái tiếp tục giới thiệu:


-.

thì từ sáng kiến của đại nhân, đã chế tạo ra điểm ngắm (đầu ruồi) cho súng, so với việc bắn bằng cảm giác trước kia thì độ chính xác tăng lên nhiều.

Đây là điều mà Âu Châu cũng không có.



Nghe xong giới thiệu của Ngô Đoái, các võ tướng trong lòng ngứa ngáy, hận không thể lập tức cầm súng để xem nó thần kỳ tới mức nào.

Nhưng trước mặt lão đại Binh bộ, ai cũng không dám lỗ mãng, chỉ đành đứng một bên vò đầu bứt tai, ho khan liên tục.



Nhìn bộ dạng của bọn họ Thẩm Mặc không nhịn nổi cười, bèn nói:


- Cho bọn hắn xem thử đi.



Vì vậy ở ngoài trăm bước treo một vò rượu.

Mà súng kia cũng đã ở trong tay Thích Kế Quang.

Đã từng là người trong thần cơ doanh, nên nhiệm vụ thử súng đương nhiên là của hắn.



Thấy Thích Kế Quang nâng 'Long Khánh thức' lên nhắm bắn, Thẩm Mặc không khỏi thầm toát mồ hôi.

Năm đó tại Long Sơn Vệ, y đã nhìn thấy biểu hiện hơn người của Thích gia quân, chỉ bắn ba lần tên mà lui địch, nếu như nói ai có tư cách đánh giá ưu khuyết của súng và cung tiễn, thì chắc chắn phải là Thích Kế Quang.



Thích Kế Quang nín hơi ngưng thần, dựa theo sự chỉ dẫn của Ngô Đoái, vững vàng nhắm vào vò rượu, sau đó từ từ siết cò.

Súng trong tay hắn như mọc rễ, không bị ảnh hưởng chút nào của lực phản chấn, vững vàng bắn đạn ra, tạch một tiếng đã bắn vỡ vò rượu nát bấy.

Toàn bộ động tác được thực hiện trơn tru, hoàn chỉnh không giống với người lần đầu tiên sờ vào súng, khiến mọi người trầm trồ khen ngợi.



Thích Kế Quang rất hài lòng, yêu thích không muốn buông khẩu súng ra, hỏi Ngô Đoái:


- Có thể bắn xa hơn được nữa không?



Ngô Đoái lắc đầu:


- Loại súng này chỉ bắn trong vòng một trăm bộ, xa hơn nữa không đảm bảo sẽ trũng mục tiêu.



Một trăm bộ chính là 150m.



Trên thực tế, một cung tiến thủ muốn huấn luyện đạt chuẩn phải từ hai đến ba năm, nhưng đối với súng kíp thủ thì chỉ cần trên dưới hai mươi ngày là có thể cơ bản xong, đây cũng là nguyên nhân vì sao các đời vũ khí sau lại được chọn dùng.

Biên quân những năm cuối thời Gia Tĩnh đã bắt đầu sử dụng điểu súng, hiệu quả cũng nhanh chóng thấy rõ, mặc dù vẫn không thể ngăn cản người Mông Cổ xâm lấn, nhưng mỗi lần đều có thể khiến cho họ thương vong nặng nề.

Thử nghĩ một chút, nếu như các binh sĩ Đại Minh, ai ai cũng thiện xạ, thì còn lo gì chiến tranh?



Thích Kế Quang nhíu mày nói:


- Hôm đó ta thấy, xạ trình của thần cơ doanh còn hơn một trăm bộ.



- À, đó là một loại súng đặc chế.


Ngô Đoái nói rồi vẫy tay, liền có binh sĩ chạy tới dâng lên một khẩu súng có hình dáng gần giống với 'Long Khánh thức'.



- Nhìn xem khác nhau ở đâu.


Thẩm Mặc mỉm cười.



Thích Kế Quang mỗi tay cầm một khẩu ngắm nghía, những người còn lại cũng tiến vào tìm hiểu, nhưng xem một hồi lâu vẫn chẳng nhìn ra điều gì, thấy vẫn là một khuôn đúc ra mà thôi.



- Nhìn nòng súng.


Thẩm Mặc cười nhắc nhở:


- Bí mật ngay trong nòng súng.



Thích Kế Quang theo lời Thẩm Mặc nheo mắt lại, dùng mắt kia nhìn nòng của khẩu súng thứ hai, cuối cùng cũng phát hiện ra manh mối.

Chỉ thấy bên trong nòng súng đáng ra phải nhẵn nhụi, thì lại thay bằng các rãnh xoắn.

Hắn không nhịn được ngẩng đầu hỏi:


- Chẳng lẽ là do các vòng xoắn này?



- Phải.


Thẩm Mặc gật đầu:


- Cái này gọi là thang tuyến, đừng coi thường nó, nó có thể làm cho đạn bắn ra chuẩn xác hơn.


(thang tuyến:

đường xoắn nòng súng)

Sau khi tiếp quản Binh bộ, Thẩm Mặc âm thầm sai người điều tra trang bị hiện nay của quân đội, xem có thiếu hụt chỗ nào không.

Trong đó có vấn đề về súng kíp, ngoài việc quan binh kêu thiếu thốn thì còn một vấn đề về xạ trình, bởi vì viên đạn hình tròn, nòng súng lại không đạt chuẩn, thường thường rõ ràng nhắm vào hươu nai dưới đất, nhưng khi bắn có khi lại trúng cả chim trên trời.



Thẩm Mặc đem vấn đề này cho các công tượng của tổng xưởng công binh và các chuyên gia Âu Châu nghiên cứu.

Y cũng đã tự mình suy nghĩ, mặc dù y chỉ là người ngoài nhưng dù sao với kiến thức hơn năm trăm năm của mình, y có thể dựa vào kinh nghiệm mà có được một chút linh cảm.

Y nghĩ tới hai phương pháp, một là tăng rãnh trong nòng súng, hai là trang bị thiết bị ngắm bắn (đầu ruồi).



Sau khi được cải tiến theo hai phương pháp trên, độ chuẩn xác của súng đã tăng lên rất nhiều, có thể bắn xa tới hơn 200m.

Nhưng vì thời đại này phải khắc rãnh thủ công, cho nên chi phí rất cao, chi phí để làm một khẩu có rãnh phải làm được hai khẩu không có rãnh.

Có điều vấn đề chủ yếu vẫn là ở lúc sử dụng súng, viên đạn phải kết hợp chặt chẽ với đường rãnh trong nòng súng, không giống như súng không nòng xoắn, đường kính viên đạn chỉ cần nhỏ hơn so với nòng súng là được, cho nên trang bị đạn cho súng có rãnh vừa khó vừa tốn.

Cũng chính vì thế mà hầu hết súng dùng trong quân đội vẫn là súng nòng trơn.

Hơn nữa qua thời gian, các binh sĩ đã nghĩ ra phương pháp tăng cường hiệu quả, ví như trước khi nhét đạn vào thì dùng vải thấm dầu bôi qua, cũng không khó hơn súng có rãnh bao nhiêu.



Như súng săn của Thẩm Mặc, nòng súng rất ngắn, công dụng chính là để săn bắn vui chơi.

Có người nói mấy năm gần đây loại súng này đã thịnh hành ở Âu Châu, các quý tộc thường xuyên tổ chức các cuộc thi bắn súng để giải trí.

Đương nhiên loại súng có xạ trình xa, uy lực lớn này không chỉ là đồ chơi của quý tộc, lúc đó thu nhập các chư hầu của Đức chủ yếu là từ lính đánh thuê, lính đánh thuê của bọn họ có ở khắp Âu Châu, trang bị chính là loại súng này.



Loại vũ khí uy lực thế này đời nào Thẩm Mặc bỏ qua, y liền mang cho tổng xưởng công binh nghiên cứu kỹ thuật tạo rãnh nòng súng.

Với sự hiểu biết của thời đại này, chỉ cần các tổng giám, công tượng cố gắng, thì tạo rãnh nòng súng cũng không khó khăn gì.

Chỉ trong mấy ngày đã nghiên cứu xong máy tạo rãnh nòng súng thủ công, từ đó tạo ra 'Long khánh thức bộ thương' đúng chuẩn.



-oOo-

Để cải tiến độ chuẩn cũng như tầm xa của súng, Thẩm Mặc còn kiến nghị thay viên đạn từ hình cầu sang một đầu nhọn, một đầu dài, việc này cũng không phải sử dụng kĩ thuật khó khăn gì.



Trong phòng thử nghiệm của tổng xưởng công binh, viên đạn dài cho thấy sự ưu việt hơn hẳn viên đạn hình cầu.

Thứ nhất, tuy có cùng trọng lượng nhưng đường kính của viên đạn dài nhỏ hơn viên đạn cầu, hơn nữa đầu nhọn của nó có thể giảm sức cản của không khí khi bắn ra.

Vì thế đường kính của súng cũng được thu nhỏ lại, trọng lượng giảm đi, tăng thêm sự chắc chắn cho súng rất nhiều.

Thứ hai, diện tích tiếp xúc với rãnh nòng súng của viên đạn dài lớn hơn đạn cầu, nương theo rãnh nòng súng tốt hơn, vì thế có thể giảm bớt độ sâu của rãnh nòng súng, từ đó giảm bớt chi phí sản xuất.



Hiện nay các công tượng chế tạo đạn đều dùng thiếc hoặc chì làm đầu đạn, nhưng vì tính mềm dẻo của chúng nên khi bắn sẽ gây tắc trong nòng súng.

Đáng lẽ loại chất liệu này không còn được dùng nữa, nhưng có người lại nghĩ liệu có thể thu nhỏ đường kính viên đạn hơn nữa được không, không ngờ thực nghiệm sau đó cho kết quả rất tốt.

Trải qua tìm tòi, đã làm ra loại đạn có đáy lõm, như vậy khi bắn đầu đạn có thể giãn nở, khiến đầu đạn kề sát rãnh nòng súng, dưới sự đè nén của rãnh nòng súng đầu đạn sẽ xoay tròn bắn ra, khi trúng mục tiêu sẽ tăng diện tích công phá, tạo thành tổn thương lớn, nhất là đối với các loại động vật có thân hình lớn lại càng có tác dụng.



Nhưng vì loại đầu đạn này chỉ có thể chế tạo bằng kim loại mềm, mà bây giờ chỉ có chì và thiếc là thích hợp.

Trong đó thiếc có điểm nóng chảy thấp, mềm, hiệu quả tốt, nhưng các công tượng lo lắng binh sĩ sẽ chiếm lấy kim loại quý này, cho nên quyết định dùng chì để chế tạo.

Hơn nữa vì đầu đạn này rất dễ bị biến dạng, cho nên công binh xưởng không sản xuất, mà cung cấp khuôn đúc cho các binh sĩ tự đúc lấy đạn trước mỗi trận chiến.



Ở thời đại này, chưa có nước nào dùng hỏa khí sánh được với Đại Minh.



-oOo-

- Ngươi vừa mới bắn chính là đạn đã cải tiến.


Thẩm Mặc nói với Thích Kế Quang:


- Nếu là đạn cũ thì xạ trình chỉ có tám mươi bộ.


Nói rồi ngón tay chỉ vào Long Khánh thức nói:


- Ngươi có thể thử cho biết.



Thích Kế Quang theo lời, lui ra hơn 150 bộ rồi ngắm bắn, trúng.

Sau đó lại lùi đến 180 bộ ngắm bắn, vẫn trúng.

Hắn định lùi nữa nhưng sân chỉ rộng có vậy, Ngô Đoái tự tin nói rằng súng này trong vòng 200 bộ bắn trúng mục tiêu là chuyện thường.



Sau khi thử súng, mọi người quay lại phòng nghị sự, các vị tướng lĩnh vẫn còn đang bị chấn động chưa kịp tỉnh.

Loại súng này trước nay chưa từng có, bộ binh có thể bắn ra mưa đạn, cho dù đối mặt với kỵ binh xung phong cũng không còn chịu cảnh chờ chết nữa.



Cuối cùng, có người không nhịn được hỏi Ngô Đoái:


- Ngô đại nhân, chúng ta lúc nào thì được trang bị Long Khánh thức?



Ngô Đoái lắc đầu:


- Còn chưa có kế hoạch.



- Cứ cho một khoảng thời gian cũng được mà.


Mọi người nhao nhao nói:


- Dù sao cũng cho một chút hi vọng chứ.



Ngô Đoái nhìn Thẩm Mặc, vấn đề này không phải là vấn đề hắn có thể trả lời.



Thẩm Mặc đặt chén trà trong tay xuống, cười nói:


- Chư vị, ai nói với các vị sẽ được trang bị loại súng này?



- Trên thao trường đã biểu diễn, chẳng lẽ lại không trang bị cho các quân?


Mã Phương ỷ mình thế lớn, hắc hắc cười nói.



- Đó chỉ là để dọa thôi, hiểu không?


Thẩm Mặc như cười như không nói:


- Trên thao trường chỉ để cho các thổ ty thủ lĩnh xem, các ngươi nhờ bọn họ mới được thấy mà thôi.



- Mạt tướng không hiểu.


Mã Phương mở to mắt nói:


- Súng tốt như vậy sao lại không trang bị cho quân?


Nói rồi lắc đầu:


- Thấy Long Khánh thức rồi, ai còn muốn dùng điểu súng rách nát này nữa.



- Xin lỗi.


Thẩm Mặc nhẹ lắc đầu:


- Phần lớn quân đội vẫn phải dùng điểu súng tác chiến.



- Vì sao?


Mã Phương nóng nảy.



- Sao lại nói với đai nhân như vậy?


Đàm Luân vội vàng quở trách.



Thẩm Mặc xua tay ý nói không có gì, thản nhiên nói với Mã Phương:


- Ngươi chỉ biết súng này tốt, nhưng không biết tốn bao nhiêu tiền mới làm được nó.



- Đúng thế.


Ngô Đoái vội vàng nói tiếp:


- Đừng chỉ nhìn súng này đơn giản vậy, muốn làm ra thật không phải là chuyện dễ.

Cái khác không nói, chỉ nói riêng nòng súng này.


Nói rồi nhìn sang Thích Kế Quang:


- Nguyên Kính huynh đối với điểu súng rất có hiểu biết, huynh nói xem nòng súng trước kia của chúng ta có vấn đề gì?



- Vấn đề không nhỏ.


Thích Kế Quang khẽ than một tiếng:


- Dễ bị rỉ sét không nói, hơn nữa nòng súng cũng không thẳng, chỉ có thể bắn phát nào biết phát đó.



- Đúng thế, điểu súng của Đại Minh ta sở dĩ không cách nào so với súng của Tây Dương chính là vì chất lượng sắt đúc nòng súng.


Ngô Đoái thở dài một tiếng.



- Vấn đề này, năm đó khi đánh Oa, mạt tướng đã nhận ra.


Thích Kế Quang gật đầu nói:


- Binh khí của chúng ta luôn bị đao của Oa nhân chém đứt, đường đường kỹ thuật luyệt sắt của Đại Minh Thiên triều không ngờ không so được với một Oa nhỏ bé, thật sự thấy xấu hổ đến chết.



- Không phải là kỹ thuật không bằng người.


Ngô Đoái lắc đầu:


- Hai năm nay chúng ta đi khảo sát Âu Châu, thì thấy kỹ thuật luyện sắt và rèn sắt của mười mấy quốc gia đều lạc hậu so với Đại Minh ta hơn trăm năm.


Nói rồi cười khổ:


- Kể cả Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cũng vậy.



- Vậy vì sao súng kíp của chúng ta lại lạc hậu?


Thích Kế Quang không hiểu hỏi.



- Có hai nguyên nhân quan trọng.


Ngô Đoái giơ hai ngón tay lên nói:


- Thứ nhất, nước ta thiếu quặng sắt chất lượng tốt.

Binh bộ phái người đi khảo sát mười lăm khu rèn đúc lớn, thì thấy bọn họ sử dụng chỉ là quặng sắt có hàm lượng tạp chất cao.



- Chính xác là photpho và lưu huỳnh.


Thẩm Mặc thản nhiên nói, y nói với kỹ thuật thăm dò khảo sát của thời đại này thì Trung Quốc vẫn không tìm được quặng sắt có chất lượng cao, vẫn phải nhập loại quặng chất lượng thấp từ bên ngoài vào.



- Một nguyên nhân khác chính là vấn đề về nhiên liệu luyện sắt.

Nhật Bản cũng tốt, Âu Châu cũng được, phàm là những nơi có thể rèn ra sắt tốt, đều dùng than củi để luyện.

Thật ra Hoa Hạ chúng ta từ xưa đến nay cũng dùng than củi, mặc dù tới thời Tống Minh chuyển sang dùng than, nhưng thực chất không phải là kỹ thuật tiến bộ, mà bởi vì rừng phương bắc ngày càng cạn kiệt, không thể cung cấp than củi được nữa, chỉ có thể dùng than đá để luyện.


Ngô Đoái khẽ than một tiếng.



- Than đá của chúng ta cũng giống quặng sắt, đều có hàm lượng lưu huỳnh và photpho cao.


Thẩm Mặc nói tiếp:


- Vì sự ảnh hưởng của than đá, cho nên chất lượng của sắt luyện ra rất xấu.

Đến khi mang vào sử dụng, sắt có nhiều lưu huỳnh dễ bị nứt vỡ, nhiều photpho thì giòn, dùng làm đao kiếm dễ gãy, làm thang dễ sập.

Việc này có ảnh hưởng lớn tới việc chế tạo súng, bởi vì không thể để súng dễ vỡ hỏng như vậy, cho nên chỉ còn cách làm cho súng dày và nặng để bù lại.



- Hiện giờ có ba cách giải quyết.


Ngô Đoái nói:


- Một là dùng đồng thay thế, nhưng chi phí cao, hơn nữa Đại Minh cũng thiếu đồng, nên không khả thi; cách hai là không tiếc chi phí rèn lại nhiều lần, muốn đạt được tiêu chuẩn nòng súng như Âu Châu, Đại Minh chúng là rèn mười cân gang lấy một cân sắt, lại dùng năm cân sắt rèn ra một điểu súng, nhưng cách này chi phí không nhỏ, hơn nữa lại tốn thời gian.



- Còn cách thứ ba?


Doãn Phụng hỏi.



- Chính là nhập quặng sắt từ nước ngoài về, sau đó dùng than củi trong nước luyện sắt.


Ngô Đoái nói:


- Hiện nay sắt để đúc Long Khánh thức đều là dùng cách này, từ Vu Hồ tinh luyện xong sẽ vận chuyển tới kinh thành, do đó chi phí rất cao, nhưng hiện nay đây cũng là cách duy nhất.


Rồi ước lượng một con số:


- Hiện nay chi phí để chế tạo một khẩu Long Khánh thức là năm mươi bốn lượng bạc, sau này có giảm cũng vẫn là năm mươi lượng, trong đó nòng súng chiếm đến bảy phần chi phí.



- Vậy chẳng phải là đúc bạc mà thành sao?


Chúng tướng líu lưỡi.



- Cho nên nếu không thể giải quyết được vấn đề nguyên liệu.


Ngô Đoái nói:


-.

thì mỗi năm chỉ làm được một vạn khẩu Long Khánh thức mà thôi.

Không phải là Binh bộ không muốn làm nhiều, cũng không phải là thiếu quặng sắt, mà là triều đình không có tiền.



Ở bất cứ quốc gia nào, quặng sắt đều là mặt hàng cấm buôn bán, vận chuyến, nhất là quặng sắt có hàm lượng cao luôn bị các quốc gia độc chiếm cho riêng mình.

Mặc dù trên đời này không có chuyện gì mà tiền không làm được, nhưng vì vậy mà chi phí cũng bị đẩy lên rất cao.

Cho nên để giải quyết vấn đề nguyên liệu, trừ phi triều đình tăng thu nhập, bằng không không thể nào tăng sản lượng được.



Thực tế với một vạn khẩu thì có thể trang bị được cho bao nhiêu bính sĩ?

Nếu như bình thường, mỗi người một khẩu không thành vấn đề, nhưng trong chiến tranh mà nói, thì dù số lần giao tranh ít, cộng với hậu phương tiếp tế không ngừng, cũng chỉ có thể trang bị cho tối đa năm, sáu nghìn người, điều này đối với hơn mười vạn nhân mã cửu biên hiện nay thì chẳng thấm vào đâu.



Cho nên đối với một vạn khẩu súng này, các tổng binh đều nóng lòng muốn có, cho dù không thể độc chiếm cũng muốn được chia một chén canh, ngay cả các tổng đốc vốn tự giữ thân phận cũng đứng ngồi không yên.



Thẩm Mặc ngồi trên thấy các tướng lĩnh tranh giành nhau tới mức mặt đỏ gay thì trong lòng sinh tức giận.

Đều là đại tướng từng dẫn mấy vạn nhân mã, sao lại có cái nhìn thiển cận như vậy.

Thực ra cho dù súng có tốt, cũng không thể xảy ra tranh giành đến mức này, mà nguyên nhân sâu xa chính là mâu thuẫn nội bộ trong quân.

Trước kia, mặc dù võ tướng mỗi trấn không hợp tính, nhưng cũng vẫn hòa thuận với nhau, việc tranh chấp tài nguyên đều do tổng đốc đứng ra.

Sau khi tổng đốc lấy được, mỗi trấn sẽ tự định đoạt với nhau, tốt xấu gì cũng là một quy củ.



Nhưng bây giờ chẳng còn quy củ nào, tất cả trở nên hỗn loạn, nguyên do cũng chính là mâu thuẫn giữa biên quân, kinh quân cùng nam quân.

Đại ý là, biên quân không ưa kinh quân cùng nam quân, vì bọn họ đều có đãi ngộ và tiếp tế tốt hơn; nam quân coi thường biên quân cùng kinh quân, bởi vì bọn họ thường bại trận, phải dựa vào sự hỗ trợ của nam quân để ổn định thế cục; kinh quân đối với biên quân và nam quân thì luôn có tư tưởng tự cao về thân phận.

Ba quân đều nghĩ mình là nhất, đương nhiên chuyện gì cũng muốn lợi cho mình.



Tác hại của mâu thuẫn nội bộ, quả thực là đáng sợ.



Thẩm Mặc không thể giải quyết mâu thuẫn, nhưng y có tuyệt kỹ làm gác lại mâu thuẫn, vì thế y trầm mặt xuống.



Mặc dù chúng tướng đang tranh cãi ầm ĩ, nhưng thật ra luôn luôn để ý tới Thẩm Mặc, thấy y lạnh lùng không nói gì thì tất cả liền im re.



- Sao không ầm ĩ nữa?


Thẩm Mặc nhếch miệng hỏi.



Mọi người không ai dám nói gì, dù thở mạnh một chút cũng không dám.



- Đều là tổng binh, đô đốc, vì mấy khẩu súng mà cãi nhau thành thế này sao?


Thẩm Mặc lạnh nhạt nói:


- Chỗ này là cái chợ à?



- Mọi người cũng chỉ vì muốn đánh cho Thát.


Mã Phương bạo gan đánh liều nói.



- Lẽ nào Mã vương gia ngươi có thể thắng Yêm Đáp liên tiếp, đều là nhờ vào Long Khánh thức?


Thẩm Mặc trừng mắt nhìn hắn, rồi nhìn sang chúng tướng:


- Các ngươi không có Long Khánh thức thì không bảo vệ khu vực của mình được sao?



- Đương nhiên không phải thế.


Mọi người lắc đầu nói.



- Vậy ngoan ngoãn ngồi xuống đi.


Thẩm Mặc đứng lên nói:


- Sự vụ cửu biên nhiều như núi, lần này cho gọi các vị trở về chắc các vị cũng đoán được, không đơn giản chỉ vì quân diễn chứ?



- Vâng.


Chúng tướng đều đứng dậy, theo sau Thẩm Mặc vào phòng họp bí mật bên trong.



-oOo-

Ngoài phòng có Cẩm Y Vệ nghiêm ngặt đứng gác, các vị tổng đốc, tổng binh chỉ có thể tiến vào một mình, không được mang theo bất cứ một tùy tùng hộ vệ nào.

Các cửa sổ bên trong đều dùng rèm lục sắc dày che lại, một tia sáng cũng không lọt.

Nhưng trong phòng có hơn mười ngọn đèn ngọc lưu ly không khói, chiếu sáng như ban ngày.



Đợi chúng tướng an vị, Thẩm Mặc sai người sai người kéo tấm màn che trên tường phía bắc xuống, lộ ra một bản địa đồ biên phòng của cửu biên.

Thấy địa đồ này, tất cả mọi người đều biết khoảnh khắc mong chờ cuối cùng đã đến.



- Chắc chắn chư vị không xa lạ gì với bản địa đồ này, đây là 'Đại Minh cửu biên biên phòng đồ'.


Giọng nói Thẩm Mặc vang lên:


- Từ ngày lập quốc, Thái tổ hoàng đế đánh đuổi Thát Lỗ, khôi phục Trung Hoa, đem tàn dư quân Nguyên đuổi về Mạc Bắc, nhưng Nguyên Thuận đế khi rút về phương bắc vẫn dẫn theo nhiều tướng lĩnh, dân chúng không dưới trăm vạn.

Vì để củng cố vương quyền mới lập, tiêu trừ thế lực tàn dư của Nguyên quân, mà Thái tổ mấy lần dụng binh lên đại mạc, tuy nhiên cũng không được như ý, đành phải thay đổi sách lược lấy phòng ngự là chính.

Thái tổ thiết lập bắc bộ biên phòng tuyến, phía đông từ Liêu Đông Áp Lục Giang, tới tận Cam Túc Tửu Tuyền phía tây, đóng quân trải dài mấy nghìn dặm, trước sau thiết lập chín trọng trấn Liêu Đông, Nghi Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Sơn Tây và Cố Nguyên, gọi là 'cửu biên'.

Cũng thiết lập phía bắc trường thành ba đội quân tiền tiêu Đại Ninh, Khai Bình, Đông Thắng Vệ để ngăn ngừa Mông Cổ nam tiến, hình thành nên thế cục quân sự liền lạc.



- Sau đó nhị tổ dựa vào cửu biên đã vài lần bắc phạt, khiến biên cảnh Đại Minh được hưởng vài chục năm an bình.

Nhưng sau biến Thổ Mộc Bảo, Đại Minh ta tổn thất nặng nề, từ đó vai trò công thủ với người Mông Cổ cũng đổi chỗ, hàng năm đều phải chịu công kích của chúng.

Hơn nữa từ thời Thiên Thuận tới nay tình hình càng trở nên nghiêm trọng, cửu biên hàng năm vẫn phải chống đỡ sự xâm lấn hàng trăm lần, Thát Lỗ liên tiếp đi sâu vào đất Đại Minh, giết người đốt nhà, thậm chí còn đánh tới sát kinh sư, làm mặt rồng sợ hãi.


Thẩm Mặc nhìn mọi người đang ngồi nói:


- Thân là tướng soái biên trấn, chư vị ắt hẳn rõ ràng việc này, không biết có suy nghĩ thế nào?



Chúng tướng đều cúi đầu, thầm nghĩ sao ngài lại vạch áo cho người xem lưng.



- Sau này khi ta nhậm chức, đã hỗ trợ Binh bộ điều tra tình hình phòng bị của cửu biên.


Thẩm Mặc lạnh lùng nhìn chúng tướng, mặt không lưu tình nói:


- Kết quả thu được khiến người ta khó lòng mà tiếp nhận.

Ở mỗi thành trấn tuần sát, trang bị mùa đông chuẩn bị cho mỗi nhánh nhân mã định mức tuy nhiều, nhưng cứ năm mươi bộ lại thiếu tới ba, bốn mươi bộ; quân đội thiếu y phục, quân khí hỏng hóc, ngựa già xấu, gian khổ vô cùng.

Với tình hình như vậy quân đội không làm phản đã là may, nói gì tới việc phòng thủ?


Y đảo mắt qua mọi người nói:


- Về phần các thành sát biên, lương thực, đồ dùng đều không nhiều, hơn nữa còn không có dự trữ.

Về phần khí giới hỏng hóc, không dùng được rất nhiều.

Thậm chí có sĩ tốt của Vệ sở dùng gậy gỗ đi tuần tra! Ta muốn hỏi các vị một chút, việc này rốt cục là do đâu?

Do triều đình không chuẩn bị tốt, Binh bộ cắt xén lương bổng, hay là do tầng tầng tướng lĩnh mỗi trấn ăn bớt?

Còn quân điền, ruộng đất cũng đi đâu mất, sao trong sổ sách các trấn đều không ghi?

Rút cục là đất có chân chạy mất sao?



Chúng tướng nghe y nói mà mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, thầm nghĩ chẳng lẽ lần về không phải là để động viên, mà là trách tội?

Lúc này cũng không thể im lặng được nữa, mọi người quay sang nhìn nhau, cuối cùng tất cả đều nhìn về phía Đàm Luân, năn nỉ vị Binh Bộ Thị Lang, Tuyên Đại tổng đốc này có thể thay mặt mọi người nói vài câu.



- Phòng chính đại nhân bớt giận.


Đàm Luân đành liều mình nói:


- Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, chúng tôi mặc dù là tổng đốc, tổng binh nhưng cũng không dám làm quá.

Chúng tôi không phải không biết vấn đề ở đâu, nhưng nếu phải xuống tay với thuộc hạ, sợ rằng sẽ loạn mất.


Khẽ than một tiếng lại nói tiếp:


- Nếu cứ truy tới cùng, triều đình sẽ phải điều chuyển các tướng lĩnh cao cấp, nhưng từ tham tướng trở xuống, thường là sống suốt đời ở quê nhà, những người này trải qua đời đời kiếp kiếp, đã kết hôn sinh nở, con cháu lại tiếp tục như vậy, tới nay đã gần được mười đời, coi như đã trở thành người bản địa.


Dừng lại một chút lại tiếp:


- Vừa rồi phòng chính đại nhân hỏi ruộng đất đi dâu, chính là cho gia tộc các tham tướng này, không tin ngài có thể điều tra các địa chủ Tuyên Đại, Cam Ninh, sẽ thấy phần lớn bọn họ có quan hệ gia tộc với các quân quan ở đó.



Chúng tướng vội vã phụ họa:


- Đúng thế thưa phòng chính đại nhân.

Nhưng chúng tôi không giống bọn họ, nguyên nhân cũng vì một khi biên phòng thất thủ, mọi tội lỗi liền đổ lên đầu chúng tôi.

Ngài xem mấy chục năm nay các vị đốc phủ, tổng binh, có ai có thể chết già trên cương vị không?

Từ lúc chúng tôi lên nhậm chức, sớm chiều đều lo sợ, chỉ sợ làm không tốt thì họa tới con cháu, người nào còn dám đi bớt xén quân tư, bóc lột sĩ tốt?



Nhất thời ai cũng có vẻ đáng thương, nào còn cái vẻ bệ vệ thường ngày.



Thẩm Mặc lặng yên nghe chúng quan kể khổ, đợi đến khi họ nói xong mới bình thản nói:


- Ta cũng không thể biết hết mọi chuyện, nếu chư vị khổ sở như vậy, vì sao còn xích mích với nam quân lên tiếp viện?

Chẳng lẽ chư vị không biết bọn họ tới là để giúp chư vị sao?



Chúng tướng bừng tỉnh, thì ra Thẩm lão vòng vo như vậy là vì chuyện này.

Đành phải nói vì biên quân không ưa nam quân, nam quân cũng coi thường biên quân, hai bên lại ở cùng nhau nên rất khó quản lý, cho nên mới xảy ra vấn đề.



- Vậy để cho biên quân thủ trong thành, nam quân ngoài thành.


Thẩm Mặc gõ gõ tay nói:


- Huynh đệ không hợp còn ra ở riêng, sao cứ bắt bọn họ ở chung một chỗ?



Khuôn mặt chúng tướng khẽ biến.

Kỳ thật mâu thuẫn của nam quân và biên quân chính là vì hai quân quá cách biệt giàu nghèo.

Mặc dù Thẩm Mặc đã cố gắng can thiệp, hiện tại biên quân đều được tuần phủ nha môn trả lương hàng

Mạng Y Tế

Nguồn: https://amp.mangyte.vn/truyendoc-quan-cu-nhat-pham-tay-bac-vong-24081.html