Thông tin bệnh Phong

Tra cứu bệnh bắt đầu bằng chữ cái P

Phong

Các tên gọi khác của bệnh này:
  • Hansen
  • Hủi
  • Cùi
  • Phung

Thông tin bệnh Phong

Tổng quan Bệnh Phong cùng các dấu hiệu, triệu chứng, nguyên nhân, điều trị, cách phòng tránh và thông tin về các bệnh viện, phòng khám, bác sĩ chữa bệnh Phong.

Tóm tắt bệnh Phong

Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen gây ra.

Vì không có bào tử nên vi khuẩn này không lây qua vật chủ trung gian.

Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1 đến hai ngày.

Phân loại bệnh phong dựa vào các biểu hiện lâm sàng của bệnh.

Bệnh phong được chia thành 2 thể: Thể phong u (viết tắt là thể L); Thể phong củ (viết tắt là thể T) và 2 nhóm: Nhóm bất định (viết tắt là I); Nhóm trung gian hay lưỡng dạng.

Triệu chứng

Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét.

Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt.

Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn.

Chẩn đoán

Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng.

Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp.

Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần.

Điều trị

Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

Bệnh thường có các triệu chứng rất đặc trưng.

Xét nghiệm tìm trực khuẩn Hansen ở dịch mũi, ở da có thể được thực hiện.

Sinh thiết da là cần thiết cho chẩn đoán.

Các xét nghiệm và kiểm tra khác bao gồm: thử nhiệm phát hiện các rối loạn cảm giác (dùng kim châm thử cảm giác đau, dùng nước nóng lạnh thử cảm giác); Thử nghiệm Histamine dùng để phát hiện tổn thương dây thần kinh trung bì; Thử nghiệm mồ hôi dùng để phát hiện chứng mất mồ hôi ở các tổn thương phong.

Tổng quan bệnh Phong

Bệnh phong là bệnh có từ lâu ở Việt Nam, tên thường gọi là bệnh hủi, miền Nam gọi là bệnh cùi, miền Trung gọi là bệnh phung; và gần đây, để tránh thành kiến sai lầm, còn gọi là bệnh Hansen.

Từ thực tiễn điều trị bệnh phong trong gần 30 năm qua, có thể tóm tắt những đặc điểm về lây lan của bệnh như sau:

Bệnh phong ít lây: tỷ lệ lây lan giữa những cặp vợ chồng, trong đó 1 trong 2 người bị bệnh phong chỉ chiếm 3-6%.

Đó là một thuận lợi lớn cho việc khống chế và thanh toán bệnh phong.

Bệnh phong lây chậm: Chu kỳ tái sinh của trực khuẩn Hansen là 12-13 ngày.

Như vậy, trực khuẩn Hansen sau khi xâm nhập vào người lành phải mất một thời gian dài mới có thể nhân lên đủ số lượng gây được bệnh.

Trong thực tế, thời gian ủ bệnh của bệnh phong rất dài, trung bình 2-3 năm, có trường hợp đến 20-32 năm.

Bệnh phong khó lây: Tỷ lệ các thể phong lây (L và B) ở Việt Nam khoảng 30%.

Trực khuẩn Hansen sau khi được bài xuất ra ngoài thường chỉ sống thêm 1 ngày, đôi khi 2 ngày và hãn hữu 1 tuần, nghĩa là trong khoảng thời gian đó, phải gặp được 1 chỗ da bị lở loét, xây xát của một người lành mới có thể xâm nhập và gây bệnh.

Trong lịch sử y học, các nhân viên y tế được phân công chăm sóc bệnh nhân phong, chưa một ai bị lây bệnh mặc dù không cần và không có thuốc gì phòng bệnh, ngoài cách duy nhất là giữ vệ sinh thân thể thông thường.

Phân loại bệnh phong dựa vào các biểu hiện lâm sàng của bệnh.

Bệnh phong được chia thành 2 thể và 2 nhóm như sau:

Thể phong u (viết tắt là thể L): dát, lan tỏa, thâm nhiễm, u, thần kinh đơn thuần.

Thể phong củ (viết tắt là thể T): dát, củ nhỏ, củ to, thần kinh đơn thuần.

Nhóm bất định (viết tắt là I): dát, thần kinh đơn thuần.

Nhóm trung gian hay lưỡng dạng: thâm nhiễm, các tổn thương khác.

Nguyên nhân bệnh Phong

Phong cũng thường được gọi là bệnh Hansen, vì vi khuẩn gây bệnh được bác sĩ người Na Uy Gerhart Henrick Armauer Hansen tìm ra vào năm 1873 qua kính hiển vi.

Đây cũng là khám phá đầu tiên về vi sinh vật gây bệnh ở loài người.

Nhờ khám phá này mà phong được cởi bỏ gán ghép là một thứ tội lỗi, một trừng phạt hoặc lây lan do di truyền.

Vi khuẩn Hansen hầu như chỉ có ở loài người.

Chúng chỉ sống được trong lòng tế bào cơ thể.

Vì thế vi khuẩn không nuôi cấy được ở trong phòng thí nghiệm nhưng có thể sinh sản ở bàn chân ẩm ướt của loài chuột.

Mới đây, các khoa học gia khám phá ra rằng, một lòai động vật tên là Armadillos, có nhiều ở Texas và Louisiana, Hoa Kỳ, cũng chứa vi khuẩn này trong gan, dạ dày, ruột.

Họ chưa biết chúng có truyền bệnh sang người hay không.

Loài động vật này không có ở châu Phi, Đông Nam Á, Ấn Độ, nơi mà bệnh phong có nhiều.

Một vài loại khỉ cũng chứa vi khuẩn Hansen.

Đôi khi vi khuẩn này cũng nằm lẫn trong đất cát.

Khoa học cũng chưa biết rõ bằng cách nào mà bệnh có thể lây lan giữa người với người.

Trước đây người ta tin tưởng rằng bệnh rất hay lây và chỉ đụng vào người bệnh đã có thể bị nhiễm bệnh rồi.

Nhưng thực ra không phải vậy.

Kinh nghiệm cũng như khoa học cho hay bệnh có thể lây nhưng không dễ lan truyền.

Vì quá trình lây lan, phải một thời gian tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa người lành với người bệnh.

Ngay cả những người chăm sóc bệnh nhân phong cũng ít khi bị nhiễm bệnh.

Hơn nữa, khoa học còn cho hay, chỉ 5% loài người có thể bị nhiễm vi khuẩn này và bệnh phong và 95% dân chúng có tính miễn dịch với vi khuẩn này mặc dù có tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân.

Đó là nhờ hệ miễn dịch của cơ thể có khả năng tiêu diệt vi khuẩn này.

Phòng ngừa bệnh Phong

Vấn đề phòng bệnh tốt nhất là tự mình biết được kiến thức cơ bản về bệnh phong để tự phát hiện sớm bệnh, biết vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường, nâng cao điều kiện sống.

Không cần cách ly hoặc xa lánh bệnh nhân vì bệnh phong khó lây và ít lây.

Điều trị bệnh Phong

Điều trị bệnh phong là làm cho bệnh nhân hết mọi triệu chứng, sạch hết trực khuẩn và khỏi bệnh, không bị tàn phế, trở lại cuộc sống lao động, sinh hoạt bình thường; bảo vệ xã hội và cộng đồng khỏi nguy cơ lây lan.

4 loại thuốc đầu vị trong điều trị bệnh phong:

Sulfone gốc, tức diamino diphenyl sulfone (DDS hay dapsone), được dùng điều trị bệnh phong từ năm 1941.

Tác dụng chủ yếu là kìm hãm trực khuẩn nhưng gần đây, DDS được chứng minh là có cả tác dụng diệt trực khuẩn do thuốc tác động lên chuyển hóa của trực khuẩn là cho nó đứt khúc và hóa hạt.

Độc tính không đáng kể, có thể gây thiếu máu tan máu nhẹ trong những tháng đầu điều trị.

Rất ít trường hợp dị ứng với DDS.

Ngày nay đã thấy xuất hiện chủng M.leprae kháng DDS.

Rifampicine (rimactan, rifadine) diệt trực khuẩn mạnh và nhanh trong 72-96 giờ, tức là 3-4 ngày sau khi uống thuốc.

Cơ chế: gây trở ngại và làm tê liệt hệ thống men ARN polymeraza của M.leprae, do đó ngăn cản sự tổng hợp protein của M.leprae.

Tác dụng phụ: viêm gan, thận, tủy, xương, sốc phản vệ (hiếm thấy).

Một vài trường hợp kháng rifampicine đã được thông báo.

Clofazimine là loại thuốc tổng hợp dẫn xuất của tactrat phendimetrazin, đã được dùng từ những năm 70 của thế kỷ 20 có tác dụng kìm hãm, về sau diệt trực khuẩn, chống viêm rất tốt, có thể dùng trong điều trị các phản ứng phong.

Sau khi uống, thuốc sẽ được tích lũy trong các tế bào liên võng và từ đó sẽ được giải phóng dần.

Vì vậy, phải sau 4-6 tuần uống thuốc mới bắt đầu có tác dụng và từ đó thuốc sẽ phát huy tác dụng liên tục.

Tác dụng phụ: da và niêm mạc bị sẫm màu và hơi đỏ, khô và ngứa; một số rối loạn tiêu hóa như đau bụng, nôn, mửa, ỉa chảy thường nhẹ.

Thioamide gồm ethionamide và prothionamide.

Cả hai loại này có tác dụng diệt khuẩn.

Tác dụng phụ: rối loạn gan, dạ dày, ruột.Bệnh phong có ái tính với thần kinh nên rất hay gây tàn phế.

Vì vậy, trong điều trị bệnh phong, cần chú trọng kết hợp hai phần sau: Điều trị bằng thuốc với chế độ phối hợp nhiều loại thuốc và liệu pháp vận động nhằm đề phòng và chữa tàn phế.

Mạng Y Tế
Nguồn: https://amp.mangyte.vn/benhcategory-phong-1917.html

Lưu ý: Thông tin về bệnh chỉ mang tính chất tham khảo.

Bệnh cùng chuyên mục

Thuốc liên quan đến bệnh Phong