Thông tin bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Tra cứu bệnh bắt đầu bằng chữ cái S

Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Các tên gọi khác của bệnh này:
  • Suy dinh dưỡng protein – năng lượng
  • Malnutrition

Thông tin bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Tổng quan Bệnh Suy dinh dưỡng cùng các dấu hiệu, triệu chứng, nguyên nhân, điều trị, cách phòng tránh và thông tin về các bệnh viện, phòng khám, bác sĩ chữa bệnh Suy dinh dưỡng.

Tóm tắt bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Suy dinh dưỡng là kết quả của chế độ ăn uống không đúng hoặc không đầy đủ.

Suy dinh dưỡngcó ba thể: Thể nhẹ cân, thể thấp còi và thể gầy còm.

Các nguyên nhân chủ yếu là do không đủ ăn, kém hấp thu thức ăn, hoặc mất quá nhiều chất dinh dưỡng.

Trong một số trường hợp suy dinh dưỡng gây tổn thương vĩnh viễn cho các cơ quan của cơ thể.

Triệu chứng

Mệt mỏi, chóng mặt, giảm cân, giảm đáp ứng miễn dịch, rụng tóc, giảm khối lượng cơ và sức mạnh, thiếu máu.

Chẩn đoán

Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

Việc khám bệnh chủ yếu bao gồm sự đánh giá về chế độ dinh dưỡng và làm xét nghiệm máu.

Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), xét nghiệm nước tiểu.

Điều trị

Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng nhưng có thể bao gồm:

Truyền dịch.

Bổ sung các chất dinh dưỡng.

Chăm sóc ytế cơ bản.

Tổng quan bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Trong ngành dinh dưỡng học, thuật ngữ ‘Suy dinh dưỡng protein - năng lượng (Severe protein - Energy malnutrition - PEM) để chỉ các thể lâm sàng điển hình từ suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor) đến thể teo đét (Marasmus).

Ngày nay, người ta cho rằng đây là một tình trạng bệnh lý do thiếu nhiều chất dinh dưỡng hơn là thiếu protein và năng lượng đơn thuần.

3 thể của bệnh suy dinh dưỡng:

Thể nhẹ cân:

Nhẹ cân chỉ là một đặc tính chung của thiếu dinh dưỡng nhưng không cho biết cụ thể đó là loại suy dinh dưỡng vừa mới xảy ra hay đã tích lũy từ lâu.

Tuy nhiên, theo dõi cân nặng là việc tương đối dễ thực hiện ở cộng đồng hơn cả, do đó tỷ lệ thiếu cân theo tuổi vẫn được thông dụng như là tỷ lệ chung của thiếu dinh dưỡng.

Nhìn chung trên phạm vi toàn cầu, sự dao động của tỷ lệ cân nặng/tuổi thấp và sự phân bố theo lớp tuổi của nó tương tự như ở chiều cao/tuổi.

Thể thấp còi:

Chiều cao theo tuổi thấp phản ảnh sự chậm tăng trưởng do điều kiện dinh dưỡng và sức khỏe không hợp lý.

Đây là một chỉ tiêu tốt để đánh giá sự cải thiện điều kiện kinh tế xã hội.

Thường thường ở các nước đang phát triển, tỷ lệ thấp còi tăng nhanh sau 3 tháng tuổi, đến 3 tuổi tỷ lệ này ổn định sau đó chiều cao trung bình đi song song với chiều cao tương ứng ở quần thể tham khảo.

Thể gầy còm:

Cân nặng theo chiều cao thấp thường phản ảnh một tình trạng thiếu ăn gần đây nhưng cũng có thể lâu hơn.

Ở các nước nghèo, nếu không có tình trạng khan hiếm thực phẩm thì tỷ lệ này thường dưới 5%, nếu tỷ lệ này ở mức 10 - 14% là cao và ở trên 15% là rất cao.

Tình trạng chung là suy dinh dưỡng cân nặng/chiều cao thường chiếm tỷ lệ cao nhất ở trẻ 2 tuổi.

Nguyên nhân bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Nguyên nhân suy dinh dưỡng ở trẻ:

Do sai lầm về nuôi dưỡng: Chế độ ăn của trẻ thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng như nuôi nhân tạo bằng nước cháo đường, ăn bổ sung sớm bằng bột mắm, muối, mì chính.

Một số trẻ sau khi cai sữa, khẩu phần ăn chủ yếu là gạo, ít thức ăn động vật, dầu, mỡ, vitamin và chất khoáng.

Do nhiễm khuẩn: Hậu quả của các bệnh nhiễm khuẩn như sởi, tiêu chảy, viêm phổi, lao, giun sán...vvlàm cho trẻ kém ăn chậm lớn.

Nguyên nhân sâu xa cũng cần phải kể đến dịch vụ y tế, môi trường, an ninh thực phẩm cho các hộ gia đình chưa đầy đủ:Thực tế lâm sàng và dịch tễ học cho thấy những trẻ 6 - 18 tháng tuổi bắt đầu ăn bổ sung và giảm dần bú sữa mẹ; trẻ sinh ra có cân nặng thấp dưới 1.500g; trẻ không được bú sữa mẹ trong năm đầu; trẻ thường xuyên bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm đường hô hấp; trẻ bị dị tật bẩm sinh như sứt môi hở hàm ếch, tim bẩm sinh, di chứng thần kinh; gia đình đông con, kinh tế eo hẹp...

vv có nguy cơ bị suy dinh dưỡng.

Nguyên nhân suy dinh dưỡng ở người cao tuổi:

Ăn uống không điều độ, ăn qua loa, đại khái, ăn ít.

Nhất là ăn một mình, đơn độc gây cho việc ăn uống chán chường hoặc thiếu quan tâm đến chất lượng trong mỗi bữa ăn rất có thể gây nên suy dinh dưỡng ở người cao tuổi.

Điều quan trọng nhất đưa đến suy dinh dưỡng ở người cao tuổi là ăn uống kém chất lượng, thậm chí không đủ bữa, bữa no, bữa đói.

Một số suy dinh dưỡng thiếu thốn kinh tế hoặc có khả năng về kinh tế nhưng không có người lo cho từng bữa ăn hàng ngày, sự việc cứ kéo dài dẫn đến suy dinh dưỡng.

Ngoài ra, còn có một số người cao tuổi suy dinh dưỡng do bệnh tật mạn tính kéo dài như: Hệ thống răng kém (răng lung lay hoặc đã rụng nhiều) gây khó khăn trong việc nhai thức ăn.

Tuyến nước bọt bị xơ hóa làm giảm khả năng bài tiết nước bọt (trong nước bọt có một số men rất cần cho việc làm nhuyễn thức ăn).

Do chức năng sinh lý của người cao tuổi bị suy giảm, đặc biệt là các giác quan, nhất là vị giác và khứu giác cho nên không kích thích sự thèm ăn ở người cao tuổi.

Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi còn có thể gặp trong một số trường hợp dễ bị dị ứng với thức ăn, cho nên người cao tuổi ‘sợ ăn’ vì lo sau khi ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hóa như: buồn nôn, nôn hoặc tiêu chảy, đau bụng.

Một số bệnh về đường tiêu hóa (nhất là bệnh về dạ dày).

Bệnh về tâm thần như: Bệnh trầm cảm mạn tính, sa sút trí tuệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến tiêu hóa và vì vậy rất dễ dẫn đến suy dinh dưỡng.

Nghiện rượu cũng là một nguyên nhân đáng kể, người nghiện rượu rất chán ăn, thậm chí không muốn ăn bất kỳ loại thực phẩm nào ngoài rượu.

Một số trường hợp người cao tuổi bị suy dinh dưỡng do kiêng khem quá mức cần thiết.

Phòng ngừa bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Cung ứng lương thực thực phẩm đầy đủ cho trẻ: Hiện tại, đây không còn là mối bận tâm quá lớn ở các thành phố.

Tuy nhiên tại các vùng ngọai thành, vùng ven và nông thôn đây vẫn còn là vấn đề nghiêm trọng đe dọa đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em.

Cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh và kéo dài 18 - 24 tháng: Sữa mẹ luôn là thức ăn đầu đời hoàn hảo nhất cho trẻ sơ sinh và là thức ăn tốt, đựơc trẻ chấp nhận trong giai đọan sau.

Sữa mẹ, ngoài cungcấp chất dinh dưỡng còn cung cấp các yếu tố chống lại bệnh tật, bảo vệ trẻ khỏi các bệnh lý nhiễm trùng.

Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ bằng bữa ăn hợp lý: Tập cho trẻ ăn dặm khi bắt đầu 4 - 6 tháng tuổi.

Cho trẻ ăn đầy đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng (bột đường, đạm, béo), không kiêng khem, và duy trì sữa mẹ trong thời gian dưới 2 tuổi.

Nếu không có đủ sữa mẹ, lựa chọn loại sữa thay thế phù hợp.

Vệ sinh an toàn thực phẩm: Là vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ trẻ tránh các bệnh nhiễm trùng đường ruột, giun sán...vv.

Chọn lựa thực phẩm tươi cho trẻ, tránh bảo quản dài ngày trừ trường hợp có tủ cấp đông đúng quy cách, hạn chếcho trẻ dùng các thực phẩm chế biến sẵn, đóng hộp, nấu nướng thức ăn chín kỹ.

Theo dõi biểu đồ tăng trưởng cho trẻ hàng tháng: Nhằm phát hiện sớm tình trạng suy dinh dưỡng hoặc các nguy cơ nếu có và can thiệp sớm.

Điều trị bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng

Điều trị các tình trạng cấp: Mất nước hay phù toàn thân, rối loạn điện giải, suy tim cấp, nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng...vv.

Bổ sung các dưỡng chất quan trọng với liều điều trị: Vitamin A, sắt, axit folic, đa sinh tố.

Dinh dưỡng điều trị tích cực: Cho ăn càng sớm càng tốt và nhanh chóng nâng khẩu phần dinh dưỡng lên mức tối đa phù hợp với khả năng tiêu hoá hấp thu của trẻ, sử dụng các thực phẩm giàu năng lượng, các chế phẩm dinh dưỡng đặc biệt, nếu cần phải sử dụng thêm các loại men hỗ trợ tiêu hoá.

Trong trường hợp suy dinh dưỡng rất nặng cần đặt vấn đề nuôi ăn bằng các phương tiện hỗ trợ như nuôi ăn qua sonde dạ dày, nuôi ăn bằng đường tĩnh mạch một phần…

Mạng Y Tế
Nguồn: https://amp.mangyte.vn/benhcategory-suy-dinh-duong-protein-nang-luong-2403.html

Lưu ý: Thông tin về bệnh chỉ mang tính chất tham khảo.

Bệnh cùng chuyên mục

Thuốc liên quan đến bệnh Suy dinh dưỡng protein – năng lượng