Thông tin bệnh Ung thư đại tràng

Tra cứu bệnh bắt đầu bằng chữ cái U

Ung thư đại tràng

Các tên gọi khác của bệnh này:
  • Ung thư ruột già
  • Colon cancer

Thông tin bệnh Ung thư đại tràng

Tổng quan Bệnh Ung thư đại tràng cùng các dấu hiệu, triệu chứng, nguyên nhân, điều trị, cách phòng tránh và thông tin về các bệnh viện, phòng khám, bác sĩ chữa bệnh Ung thư đại tràng.

Tóm tắt bệnh Ung thư đại tràng

Ung thư đại tràng có thể phát triển từ một số loại khối u lành tính, như u tuyến.

Ung thư đại tràng thường phát triển chậm, nhưng có thể đạt kích thước rất lớn.

Bệnh gây tắc nghẽn đường ruột và/hoặc di căn đến các cơ quan lân cận, đặc biệt là gan.

Nội soi giúp phát hiện bệnh.

Nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm, bệnh nhân có nhiều cơ hội sống sót.

Ung thư đại tràng thường chỉ gặp ở bệnh nhân trên 50 tuổi.

Bên cạnh tuổi tác, các yếu tố nguy cơ khác bao gồm: bệnh viêm ruột (viêm loét đại tràng và bệnh Crohn), lịch sử gia đình có người mắc ung thư đại tràng hoặc u tuyến, chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, ít chất xơ, lối sống ít vận động, sử dụng rượu, hút thuốc.

Vấn đề chủng tộc cũng góp phần vào nguyên nhân gây bệnh, như tỉ lệ mắc bệnh cao nhất là ở người Alaska bản địa và thấp nhất ở Tây Ban Nha và Philippines.

Triệu chứng

Đau bụng, đầy bụng, buồn nô, nôn, táo bón, mệt mỏi, sụt cân không rõ lý do, thiếu máu, phân lẫn máu.

Chẩn đoán

Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

Nội soi đại tràng, sinh thiết đại tràng để xác định chẩn đoán.

Các xét nghiệm bổ sung bao gồm: Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI) và/hoặc chụp cắt lớp phát xạ (PET Scan) để xác định di căn.

Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP).

Các xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu.

Điều trị

Điều trị phụ thuộc vào mức độ của bệnh:

Phẫu thuật cắt bỏ khối u nếu chưa di căn.

Hóa trị và xạ trị để tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật, kiểm soát sự phát triển của khối u và làm giảm triệu chứng của bệnh (đối với trường hợp khối u đã di căn).

Tổng quan bệnh Ung thư đại tràng

Ung thư ruột già là một trong những ung thư thường xuyên và nguy hiểm nhất tại Hoa Kỳ.

Mỗi năm trên nước Mỹ hơn 130.000 người bị ung thư ruột già và trong số này gần một nửa sẽ tử vong trong một thời gian ngắn sau khi bệnh được phát hiện.

Nếu so với các loại ung thư khác, ung thư ruột già đứng hàng thứ 2 về số tử vong hàng năm, sau ung thư phổi.

Người ta ước đoán khoảng 6% dân số sống tại Hoa Kỳ sẽ bị ung thư ruột già, và 6 triệu người đang sống trên nước Mỹ sẽ tử vong vì căn bệnh này.

Điều đáng ngại nhất là trong số những bệnh nhân này, tỷ lệ người Á châu càng ngày càng tăng nhanh.

Ruột già dài khoảng 1,2m, được chia thành đại tràng lên (Ascending colon), đại tràng ngang (Tranverse colon), đại tràng xuống (Ascending colon), đại tràng sigma (Sigmoid colon) và đoạn cuối cùng (khoảng 15 đến 20 cm) là trực tràng (Rectum).

Tuy trực tràng vẫn được xem là một phần của ruột già, ung thư trực tràng có một số đặc tính khá đặc biệt.

Ung thư ruột già là gì?

Ung thư xảy ra khi một tế bào nào đó trong cơ thể của chúng ta bỗng dưng trở nên 'hoang dại', sinh sôi nảy nở một cách nhanh chóng vượt khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của các nhiễm sắc thể.

(Nhiễm sắc thể với tên khoa học là ADN nằm trong nhân của tế bào chứa đựng những đặc tính di truyền của mỗi một cá nhân).Vì thế, tế bào ung thư sẽ tăng trưởng từ 1 thành 2, 2 thành 4, 4 thành 8, 8 thành 16… một cách rất nhanh và vô trật tự.

Nếu đó là tế bào da, ta bị ung thư da; nếu đó là tế bào ruột ta bị ung thư ruột.

Thông thường ung thư ruột phát xuất từ một tế bào nào đó trên màng ruột già.

Ban đầu chỉ là bướu nhỏ và từ từ lớn dần và từ đó biến dạng thành ung thư.Bướu lớn hơn 2 cm bắt đầu biến dạng thành tế bào ung thư.

Trong một vài trường hợp hiếm hoi hơn, ung thư ruột hình thành một cách trực tiếp mà không qua trạng thái bướu ruột như đã trình bày ở trên.

Trong trường hợp này, tế bào ung thư không mọc lên như những nấm nhỏ mà chỉ "nhô" lên một chút hay đôi khi bị lõm xuống, nên rất khó định bệnh.

Ngay cả khi soi ruột già hoặc chụp hình quang tuyến, bệnh có thể không được phát hiện trong những giai đoạn đầu.

Đáng kể hơn, loại ung thư này có khuynh hướng phát triển nhanh chóng và lan tràn qua những cơ quan khác một cách dễ dàng hơn.

Nguyên nhân bệnh Ung thư đại tràng

1.

Polyp đại tràng

Nếu những ai bị polyp đại tràng mà không chữa trị kịp thời, để lâu ngày thì các polyp đó có nguy cơ rất cao phát triển thành ung thư ruột già.Đặc biệt, nguy cơ cao nhất mắc ung thư ruột già ở những người có tiền sử gia đình bị polyp, tức là ở một số gia đình, các thành viên có thể bị hàng trăm polyp trong đại tràng, trực tràng.

Vì thế, các thành viên trong gia đình cần được tầm soát ung thư ngay từ nhỏ và có khi cần phải được tư vấn về di truyền.

2.

Chế độ ăn uống

Ruột già ở đoạn cuối của hệ tiêu hóa, vì thế chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ung thư ruột già.

Theo những khảo cứu tại nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, một chế độ ăn càng nhiều chất đạm từ thịt, mỡ động vật, ăn nhiều các đồ ăn được chế biến như nướng, rán, hun khói, thức ăn với nhiều chất cholesterol trong khi họ lại không ăn chất xơ, rau hoặc trái cây, hoặc quá béo…trong nhiều năm, có nguy cơ cao mắc ung thư ruột già.Các cuộc khảo sát cũng chỉ ra: nếu những người di cư từ những nơi ít có ung thư ruột già, khi đến một quốc gia mới có thói quen ăn thịt, cũng sẽ dễ bị ung thư ruột già giống như người bản xứ ở quốc gia mới đến cư ngụ.

Người theo đạo Mormons ít ăn thịt ít bị ung thư ruột già hơn những ông bà bạn hàng xóm của họ không theo đạo Mormons, ăn thịt nhiều hơn; và người Nhật Bản, trước đây ít bị ung thư ruột già, bây giờ nhiều hơn, vì nay họ có thói quen ăn uống giống với người phương Tây.

3.

Bệnh viêm nhiễm đường ruột

Những người bị các bệnh viêm nhiễm đường ruột như: bệnh Crohn, viêm loét đại tràng cũng dễ bị ung thư ruột già hơn.

Nhiều người không may mang bệnh viêm ruột (gồm hai bệnh “viêm loét đại tràng” và “viêm đại tràng hạt”), cứ hay đi đại tiện ra máu, đau bụng, lâu lâu lại tắc ruột.

Sau 25 năm mang bệnh với các triệu chứng tái phát như vậy, khả năng bị ung thư ruột già rất cao (8 - 30%).

Sau 15 năm mang bệnh viêm ruột, căn bệnh vẫn hay hành, cắt bỏ hẳn ruột già sẽ làm giảm nguy cơ ung thư, đồng thời cũng giúp người bệnh đỡ khổ vì các triệu chứng.

4.

Di truyền

Ung thư ruột già cũng có đặc tính di truyền.

Nghĩa là nếu bố mẹ bị ung thư ruột già, con cái cũng có thể dễ bị.

Nhất là, bệnh nhân bỗng dưng có trên màng ruột của mình hàng trăm “cục” bướu (polyp).

Các bướu này xuất hiện một cách nhanh chóng và biến dạng thành các tế bào ung thư một cách mau lẹ.

Căn bệnh ung thư ruột do di truyền có tên là Familial Polyposis, hầu hết các bệnh nhân sẽ chết ở lứa tuổi 35 - 40, nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời.

5.

Tuổi

Ung thư ruột già đa phần thường xuất hiện ở những bệnh nhân ngoài 50 tuổi.

Theo thống kê, 90% người bước sang độ tuổi 50 tăng nhanh nguy cơ bị ung thư ruột già.

Cả nam và nữ đều có nguy cơ bị ung thư ruột già.

Theo thống kê ở Mỹ, cứ 16 người bước sang tuổi 50 thì có 1 người bị ung thư ruột già.

6.

Tiền sử bệnh nhân

Đã từng bị các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng… cũng có nguy cơ cao mắc ung thư ruột già.

7.

Lười vận động, hút thuốc lá, uống rượu…cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư ruột già.

Phòng ngừa bệnh Ung thư đại tràng

Sau đây là những lời khuyên của Hội Ung thư Hoa Kỳ để tránh bị ung thư ruột già:

Từ 40 tuổi trở đi, cả hai giới nam và nữ cần phải đi khám bệnh tổng quát hàng năm.

Trong lúc khám định kỳ, bác sĩ sẽ thử phân xem trong phân có máu hay không.

Vì mục đích là truy tìm ung thư, bạn nên đi khám trước khi bị đau đớn hoặc bệnh tật.

Nếu chờ đến lúc triệu chứng trở nên rõ rệt, chẳng hạn như đi đại tiện ra máu, mới đi khám bệnh thì có thể lúc đó ung thư đã quá lớn và rất khó chữa.

Nếu một trong những thân nhân gần của bạn bị ung thư ruột già, hoặc nếu bạn đã hoặc đang bị ung thư vú, ung thư tử cung, bạn nên đi khám chuyên khoa về đường ruột, để được truy tìm ung thư ruột già bằng phương pháp nội soi đại tràng.

Nên ăn nhiều rau, uống nhiều nước.

Nhất là các loại rau đậm mầu và nhiều loại trái cây khác nhau.

Điều này nói dễ hơn làm.

Trung bình nên ăn khoảng 30 g chất xơ mỗi ngày.

1 quả cam, hoặc táo chỉ chứa khoảng 3 g chất xơ mà thôi.

Vì thế, nếu vì một lý do nào đó bạn không thể ăn nhiều chất xơ được, bạn nên uống thêm chất cám bày bán trên thị trường như Metamucil, Konsyl, Citrucel...

Vitamin A, C, E.

Nếu dùng đúng cách có thể làm ung thư ruột già phát triển chậm lại.

Người ta cũng nhận thấy một số loại thuốc giảm đau như họ Aspirin hay Ibuprofen, nếu được uống đều đặn có thể ngăn cản sự hình thành bướu ruột già.

Vì thế, một số bác sĩ vẫn khuyên nếu bạn hơn 40 tuổi mà không bị đau dạ dày, bạn nên uống mỗi ngày 1 viên Aspirin loại 81 mg.

Như thế Aspirin không những tránh được tắc nghẽn mạch máu mà còn có thể giúp tránh bị ung thư ruột già.

Trong một cuộc khảo cứu gần đây, người ta cũng nhận thấy rằng nếu uống canxi mỗi ngày có thể giảm tái phát của bướu ruột già.

Tập thể dục đều đặn không những sẽ tạo cho bạn có một cơ thể khỏe mạnh, còn có thể giúp bạn đi đại tiện dễ hơn.

Người quá béo cũng dễ bị ung thư ruột già hơn.

Từ 50 tuổi trở đi, nên soi ống mềm đại tràng sigma (Flexible Sigmoidoscopy).

Nếu kết quả tốt, bạn chỉ cần soi định kỳ 3 - 5 năm/lần.

Gần đây, Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến nghị người từ 50 tuổi trở lên, ngay cả khi chưa có triệu chứng nào, cũng nên soi toàn bộ đại tràng thay vì chỉ soi một đoạn ngắn mà thôi.

Lời khuyên căn cứ trên việc nhận xét là ung thư ruột già trong những năm vừa qua có khuynh hướng xuất hiện ở phần ruột bên trong, nên nếu chỉ soi đại tràng sigma (Sigmoidoscopy), một số ung thư sẽ không được phát hiện kịp thời.

Vì đây là một khuyến cáo mới cho một phương pháp khá đắt tiền nên một số hãng bảo hiểm cũng như bác sĩ vẫn chưa áp dụng một cách triệt để.

Nếu bạn có nguy cơ bị ung thư ruột già, như gia đình bạn có người bị ung thư ruột lúc còn trẻ, bạn bị ung thư tử cung, ung thư vú, tự nhiên bị mất máu hoặc thiếu sắt, đi đại tiện ra máu, hoặc đại tiện thay đổi thất thường, bị đau bụng dưới một cách kỳ lạ, nhất là nếu bị sụt cân ngoài ý muốn, bạn phải đi khám bệnh càng sớm càng tốt.

Điều trị bệnh Ung thư đại tràng

Việc chữa trị ung thư ruột già tùy vào việc ta phát hiện được ung thư sớm hay muộn, nó còn tại chỗ hay đã ăn sâu xuống, lan đi xa.

Ung thư tiến triển qua 5 giai đoạn (Hệ thông phân giai đoạn Dukes):

A: khi ung thư còn ở nông trên lớp niêm mạc hoặc dưới niêm mạc ruột già.

B1: ung thư lan vào cơ.

B2: ung thư xuống vào hoặc qua màng thanh dịch.

C: ung thư di căn đến các hạch bạch huyết vùng.

D: ung thư di căn xa đến các cơ quan khác như gan, phổi, ...

Trước khi điều trị, để biết ung thư đã di căn đến đâu, cần soi toàn ruột già (nếu chưa soi), chụp phim ngực, chụp CT bụng và vùng chậu.

Phát hiện sớm trong giai đoạn A, khi ung thư mới còn trên lớp niêm mạc, chưa ăn sâu xuống lòng của ruột già, điều trị sẽ đơn giản, phẫu thuật cắt bỏ ung thư là xong, và tỉ lệ sống thêm 5 năm (5 - year survival rate) của người bệnh rất cao, trên 90%.

Dù vậy, vẫn cần theo dõi sát trong vòng 5 năm đầu sau khi mổ cắt bướu ung thư thành công, bằng cách đo chất CEA trong máu (Carcinoembryonic antigen, một chất tăng cao trong máu khi có ung thư ruột già) 3 tháng/lần, khám bệnh đều 6 tháng/lần, và soi lại hoặc chụp phim ruột già 3 năm/lần.

Ở các giai đoạn B và C, sau khi phẫu thuật cắt bỏ ung thư, thường phải trị liệu thêm bằng tia xạ (Radiation therapy) và điều trị hóa học (Chemotherapy), với hy vọng tiêu diệt hết những tế bào ung thư chưa cắt bỏ hết được.

Còn để quá muộn, khi ung thư đã sang giai đoạn D, di căn xa đến cả các cơ quan khác, điều trị chủ yếu là hóa trị liệu (Chemotherapy), dùng những thuốc có tác dụng diệt ung thư, nhờ thuốc đến mọi nơi trong cơ thể có tế bào ung thư để tiêu diệt chúng.

Việc này không thành công nhiều, và tỉ lệ sống thêm 5 năm của người bệnh chỉ khoảng 5%.

Mạng Y Tế
Nguồn: https://amp.mangyte.vn/benhcategory-ung-thu-dai-trang-3532.html

Lưu ý: Thông tin về bệnh chỉ mang tính chất tham khảo.

Thuốc liên quan đến bệnh Ung thư đại tràng