-
Trị liệu hệ thống liên quan đến toàn bộ gia đình, và đôi khi cả gia đình mở rộng, với thông thường hai nhà trị liệu hoặc nhiều hơn
-
Bỏ qua khía cạnh chuyên môn của từ ngữ, điều này có nghĩa rằng tăng cường sức khoẻ không chỉ tiến hành với các cá nhân
-
Benzodiazepine tốt nhất, Valium mới được đưa ra thị trường vài năm. Vào giữa những năm 1980, các benzodiazepine là Thu*c hướng thần được chỉ định rộng rãi nhất.
-
Trị liệu Thu*c được dùng để thay đổi mức độ các chất dẫn truyền thần kinh và cảm xúc, hành vi
-
Hai nhóm Thu*c nhằm làm tăng nồng độ của serotonin bằng cách ức chế tái hấp thu nó ở tận cùng trước xi nap: Thu*c 3 vòng
-
Trị liệu sốc điện (ECT) là cho dòng điện phóng qua não trong một khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích nhằm gây ra các cơn co giật kiểu động kinh, giúp cải thiện trạng thái tâm thần.
-
Mô hình không tưởng cho rằng chỉ có những người nào đạt được mức độ tối đa so với khả năng của mình trong cuộc sống thì họ mới không có những vấn đề về sức khỏe tâm thần.
-
Gốc rễ của tiếp cận này nằm trong các nghiên cứu của Kraepelin ở vào cuối thế kỉ 19. Ông đã mô tả một loạt các hội chứng, mỗi hội chứng lại có một phức bộ các triệu chứng.
-
Tiếp cận chiều hướng quan niệm rằng nên coi người đã được chẩn đoán rối loạn tâm thần thực ra là ở đầu mút của sự phân bố bình thường
-
Tất cả các mô hình đã được bàn luận đều dựa trên quan niệm cho rằng nguyên nhân của các rối loạn tâm thần nằm trong cá nhân, đó có thể là do di truyền, hoá sinh hoặc tâm lí.
-
Ở đây rối loạn được xem như là hệ quả của sự tương tác stress hoặc mang tính rối loạn sai lệch trong gia đình.
-
Việc tự bạch diễn ra khi nhà trị liệu kể cho thân chủ những câu chuyện tương ứng với tình huống của thân chủ, như những trải nghiệm tương tự, ý nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cá nhân.
-
Nghiên cứu về di truyền mới đây của Tienari và cs đã so sánh tỉ lệ tâm thần phân liệt ở những người con nuôi của mẹ được chẩn đoán tâm thần phân liệt
-
Tuy nhiên hầu hết đều nhất trí rằng nó bao gồm những rối loạn liên quan đến tư duy và tri giác.
-
Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.
-
Không một buổi phỏng vấn đánh giá nào giống y nguyên với một buổi phỏng vấn khác
-
Chúng có những tác dụng phụ khác nhau và thường dẫn đến việc những người dùng Thu*c luôn tìm cách giảm liều hoặc bỏ Thu*c.
-
Yếu tố trung tâm của phản ứng hoảng sợ là sự kích thích sinh lí ở mức độ cao, khởi đầu là sự hoạt hoá của vùng dưới đồi và được trung gian bởi hệ thần kinh giao cảm.
-
Nỗi lo của những người bị GAD thường liên quan đến những vấn đề của đời sống thường nhật hoặc những vấn đề không mấy quan trọng
-
Những ý nghĩ, sự thôi thúc hay những hình ảnh lặp đi lặp lại và dai dẳng mà chủ thể phải trải nghiệm như một sự chịu đựng và vô lí, khiến cho chủ thể lo lắng và khổ sở một cách đáng kể.
-
Những người bị trầm cảm được đặc trưng bởi các vấn đề về cảm xúc, động cơ, sinh lí và nhận thức
-
Chỉ có số ít những người có các triệu chứng trầm trọng, kéo dài qua cả mùa đông mới được chẩn đoán là SAD
-
Những cá nhân hưng cảm đi lại rất nhanh, nói nhanh, to; những đoạn đối thoại của họ thường có nhiều lời bông đùa và cố gắng tỏ ra tài giỏi
-
Bronisch và Wittchen thông báo rằng trong những người được chẩn đoán là trầm cảm mà họ lấy làm mẫu nghiên cứu
-
Nó có thể bao gồm những trải nghiệm chiến tranh, bị lạm dụng T*nh d*c hoặc thể chất thời thơ ấu, cưỡng dâm, thiên tai hoặc những thảm họa do công nghệ.
-
Những người đưa ra mô hình sang chấn thời thơ ấu cho rằng kinh nghiệm về một sang chấn nghiêm trọng trong thời kì thơ ấu
-
Trong cuộc tranh luận về tính chân thực của trí nhớ khôi phục, mỗi bên đều đưa ra bằng chứng để khẳng định ý kiến của mình đồng thời để nghi ngờ những ý kiến đối lập.
-
Một trong những cách giải lo âu liên quan đến hành vi T*nh d*c là bằng kĩ thuật tập trung vào cảm giác, với mức độ tiến dần từ từ đến động chạm vào bộ phận Sinh d*c.
-
Để giải thích mong muốn thay đổi D**ng v*t, Ovesey Person nhấn mạnh rằng những người loạn dục chuyển đổi giới không lo lo sợ bị thiến như những cậu bé khác.
-
Chưa có nhiều những đánh giá về can thiệp nhận thức trong trị liệu rối loạn cương cứng, mặc dù Goldman và Carroll cũng đã thông báo kết quả của một số xemina.
-
Trong một nghiên cứu điều tra trên 1000 người đàn ông trưởng thành bị loạn dục cải trang
-
Những giải thích nguyên nhân cố gắng đi xác định các cách thức chung của tất cả các dạng loạn dục đa dạng
-
Những hành vi loạn dục với trẻ em cũng rất khác nhau. Một số người chỉ nhìn mà không đụng chạm vào trẻ. Một số khác lại thích động chạm hoặc cởi quần áo của chúng.
-
Mức độ phân bố trong dân cư của những rối loạn khác nhau như sau: 0,4% dân số đối với rối loạn nhân cách paranoid và ái kỉ, 4,6% đối với rối loạn nhân cách ranh giới (Davidson 2000).
-
Các nghiên cứu về gen chỉ ra rằng nguy cơ bị rối loạn nhân cách ranh giới, phần nào đó có thể là hậu quả của yếu tố di truyền
-
Khi không có những tiêu chuẩn chẩn đoán chuyên biệt của DSM, những người xem chống đối xã hội và nhân cách bệnh là hai bệnh khác nhau
-
Các hành vi chán ăn khác nhau của chứng chán ăn có thể quy cho yếu tố gen, sau khi nghiên cứu sinh đôi trong đó họ tìm thấy
-
Tiêu chuẩn đầu tiên để chẩn đoán rối loạn khả năng học là khởi phát trước tuổi 18, ngoại trừ những rối loạn cảm xúc do chấn thương hoặc những bệnh thần kinh khởi phát muộn.
-
Đó là chưa kể đến một số vấn đề khác nhẹ hơn, khá phổ biến trong dân cư (Bailey và cs. 1995). Những khả năng và khó khăn của người tự kỉ cũng rất khác nhau.
-
Các cứ liệu ủng hộ cho nhận định này chủ yếu xuất phát từ những nghiên cứu phát hiện thấy nồng độ dopamine tăng thì các triệu chứng của ADHD giảm.