1. Bệnh tay chân miệng là gì?
Bệnh tay chân và miệng là một hội chứng bệnh ở người do virus đường ruột của họ Picornaviridae gây ra. Giống virus gây bệnh tay chân miệng phổ biến nhất là Coxsackie A và virus Enterovirus 71 (EV-71). Đây là một bệnh thường gặp ở nhũ nhi và trẻ em.
Ảnh minh họa |
2. Triệu chứng của bệnh tay chân miệng
Các triệu chứng của bệnh tay chân miệng thường xuất hiện trong vòng 3-5 ngày sau khi tiếp xúc với nhiễm trùng. Thời gian này được gọi là giai đoạn ủ bệnh.
Tay chân miệng thường được đặc trưng bởi sốt, đau họng và nổi ban có bọng nước. Triệu chứng đầu tiên thường là sốt nhẹ, biếng ăn, mệt mỏi và đau họng. Một đến hai ngày sau khi xuất hiện sốt trẻ bắt đầu đau miệng. Khám họng trẻ có thể phát hiện các chấm đỏ nhỏ sau đó biến thành các bọng nước và thường tiến triển đến loét. Các tổn thương này có thể thấy ở lưỡi, nướu và bên trong má. Ban da xuất hiện trong vòng 1 đến 2 ngày với các tổn thương phẳng trên da hoặc có thể gồ lên, máu đỏ và một số hình thành bọng nước. Ban này không ngứa và thường khu trú ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân. Như vậy ban điển hình thường xuất hiện ở các vị trí tay, chân và miệng nên bệnh có tên Bệnh Tay - Chân - Miệng. Tuy nhiên ban có thể xuất hiện ở mông. Một số trường hợp, ban chỉ xuất hiện ở miệng mà không thấy ở các vị trí khác.
3. Dấu hiệu sớm cảnh báo tay chân miệng diễn biến nặng
- Quấy khóc dai dẳng kéo dài: Trẻ có thể quấy khóc nhiều, thậm chí là quấy khóc cả đêm không ngủ. Trẻ cứ ngủ khoảng 15-20 phút lại dậy quấy khóc khoảng 15-20 phút rồi lại ngủ tiếp. Nhiều cha mẹ thường giải thích là do bé có các nốt đau miệng nhưng thực tế không phải vậy. Đó là do tình trạng nhiễm độc thần kinh ở giai đoạn rất sớm.
- Sốt cao không hạ: Trẻ sốt trên 38,5 độ C kéo dài hơn 48 giờ và không đáp ứng với thuốc hạ nhiệt paracetamol. Các quá trình đáp ứng viêm rất mạnh trong cơ thể, gây nên tình trạng nhiễm độc thần kinh. Lúc này, cần dùng một loại thuốc hạ sốt đặc biệt hơn đó là các chế phẩm có Ibuprofen.
- Giật mình: Đây là dấu hiệu của tình trạng nhiễm độc thần kinh. Chú ý phát hiện triệu chứng này ngay cả khi trẻ đang chơi, quan sát xem tần suất giật mình có tăng theo thời gian hay không.
4. Nguyên nhân gây bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng gây ra bởi một số týp enterovirus khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc nhóm enterovirus A. Hai tác nhân chính gây ra bệnh tay chân miệng là CVA16 và EV71. So với CVA16, tỷ lệ mắc tay chân miệng gây ra bởi EV71 thấp hơn.
- Đầu tiên virus lan đến mô trong miệng, gần amiđan, và xuống hệ tiêu hóa. Sau đó virus có thể lan tới các hạch bạch huyết lân cận và qua máu đi khắp cơ thể. Hệ miễn dịch sẽ chống trả lại virus để ngăn nó lan tới những cơ quan trọng yếu, như não.
Bệnh tay chân miệng lây như thế nào?
Các virus gây bệnh tay chân miệng có thể lây theo 2 cách:
- Qua những giọt dịch tiết từ đường hô hấp - gần giống đường lây của cảm cúm.
- Qua các bề mặt nhiễm bẩn hoặc chất thải (phân).
Thông thường bệnh lây lan do tay bị dính virus từ những đồ vật nhiễm bẩn, sau đó đưa tay lên gần miệng hoặc mũi. Bệnh cũng có thể lây do hít phải virus qua những giọt lơ lửng trong không khí.
Virus sẽ không lây lan theo cách này một khi người bệnh đã hết triệu chứng. Tuy nhiên, vi rút cũng có thể có mặt với số lượng lớn ở trong phân của người nhiễm, và có thể tồn tại ở đó trong tới 4 tuần sau khi các triệu chứng đã hết.
Lây bệnh tay chân miệng nếu tiếp xúc với dịch từ các nốt mụn nước hoặc nước bọt của người bệnh.
5. Phân biệt tay chân miệng với các bệnh khác
Ảnh minh họa |
Nhiều virus có thể gây các nốt đỏ và loét trong miệng - chứ không chỉ riêng những vi rút gây bệnh tay chân miệng. Tuy nhiên, bác sĩ có thể phân biệt bệnh tay chân miệng với các nhiễm virus khác bằng:
- Tuổi của người bệnh - bệnh tay chân miệng hay gặp nhất ở trẻ dưới 10 tuổi.
- Mô hình triệu chứng - các triệu chứng bắt đầu bằng sốt cao và đau họng; sau đó các vết loét phát triển trong miệng của trẻ, tiếp theo là các nốt phát ban ở bàn tay và bàn chân.
- Biểu hiện của các nốt - những nốt này nhỏ hơn nốt thủy đậu và thường có màu sắc, kích thước và hình dạng khác biệt.
Có thể khẳng định (hoặc loại trừ) bệnh tay chân miệng bằng cách dùng tăm bông quệt vùng da, họng hoặc trực tràng của người bệnh và mang xét nghiệm. Đối với trẻ em có thể dùng mẫu phân.
6. Biến chứng của bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng thường nhẹ và tự khỏi mà không cần điều trị. Biến chứng thường hiếm gặp, nhưng có thể gồm:
Mất nước:
Những nốt loét trong họng và miệng có thể gây khó uống và khó nuốt, dẫn đến mất nước. Điều quan trọng là trẻ phải được uống đủ nước. Khuyến khích trẻ uống nước và sữa thay vì những loại đồ uống có tính a xít như nước trái cây.
Có thể sẽ dễ hơn nếu khuyến khích trẻ uống từng ít một nhiều lần thay vì cố uống thật nhiều một lúc.
Hãy liên hệ với bác sĩ nếu trẻ không thể hoặc không muốn uống bất kỳ loại đồ uống nào, hoặc nếu trẻ có những dấu hiệu mất nước, bao gồm:
- Da khô, nhăn, khi véo da chỗ véo lâu hết.
- Không thể đi tiểu, hoặc không có nước tiểu trong 8 giờ
- Quấy khóc.
- Mắt trũng.
- Trẻ có vẻ mệt mỏi và lờ đờ bất thường.
- Thóp trũng (ở trẻ nhỏ).
Những trường hợp mất nước nhẹ có thể điều trị bằng dung dịch bù nước đường uống, có bán sẵn tại phần lớn các hiệu thuốc. Những trường hợp nặng hơn có thể cần điều trị trong bệnh viện.
Bội nhiễm:
Cũng có nguy cơ các nốt trên da bị nhiễm trùng, nhất là nếu những nốt này bị trầy xước.
Các triệu chứng của nhiễm trùng da gồm:
- Đau, đỏ, sưng và cảm giác nóng ở chỗ nhiễm trùng.
- Da rỉ nước hoặc có mủ.
Hãy cho trẻ đi khám nếu nghi ngờ bị bội nhiễm ở da, vì trẻ có thể cần điều trị bằng kháng sinh bôi hoặc uống.
Viêm màng não do virus:
Trong một số hiếm trường hợp, bệnh tay chân miệng có thể dẫn đến viêm màng não do virus. Viêm màng não virus ít nặng nề hơn viêm màng não vi khuẩn và không gây đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe. Phần lớn các trẻ sẽ phục hồi hoàn toàn trong vòng 2 tuần.
Các triệu chứng bao gồm:
- Sốt cao 38 độ C hoặc hơn.
- Li bì.
- Đau đầu.
- Cứng gáy.
- Sợ ánh sáng.
Không có cách điều trị đặc hiệu cho viêm màng não virus ngoài việc dùng thuốc giảm đau để giảm triệu chứng.
Viêm não:
Biến chứng nặng nhất nhưng hiếm gặp nhất của bệnh tay chân miệng là viêm não, có thể gây tổn thương não và đe dọa tính mạng.
Những dấu hiệu sớm của viêm não là những triệu chứng giống như cúm, có thể diễn ra trong vài giờ hoặc vài ngày.
Các triệu chứng khác gồm:
- Mệt mỏi.
- Thờ ơ, li bì hoặc lú lẫn.
- Co giật chân tay.
- Yếu hoặc liệt các chi.
- Sợ ánh sáng.
- Các triệu chứng thần kinh đặc hiệu khác.
Trẻ vị viêm não cần được nhập viện để điều trị.
Phần lớn các trường hợp viêm não có liên quan đến bệnh tay chân miệng xảy ra trong những vụ dịch lớn do enterovirus 71.
7. Phòng bệnh tay chân miệng
Hiện nay chưa có phương pháp phòng bệnh đặc hiệu cho Bệnh Tay - Chân - Miệng cũng như các bệnh khác do enterovirrus không phải bại liệt khác tuy nhiên biện pháp vệ sinh chặt chẽ có thể hạ thấp nguy cơ nhiễm bệnh.
Các biện pháp có tác dụng phòng tránh bệnh chân tay miệng là:
- Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, tốt nhất là rửa dưới vòi nước chảy (cả người lớn và trẻ em), đặc biệt trước khi chế biến thức ăn, trước khi ăn/cho trẻ ăn, trước khi bế ẵm trẻ, sau khi đi vệ sinh, sau khi thay tã và làm vệ sinh cho trẻ.
- Thực hiện tốt vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống chín; dụng cụ ăn uống phải đảm bảo được rửa sạch sẽ trước khi sử dụng (tốt nhất là ngâm tráng nước sôi); đảm bảo sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày; không mớm thức ăn cho trẻ; không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi; không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay, dụng cụ ăn uống như bát, đĩa, thìa, cốc, đồ chơi chưa được khử trùng.
- Thường xuyên lau rửa đồ chơi của trẻ, lau sạch các bề mặt, dụng cụ tiếp xúc hàng ngày như dụng cụ học tập, tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, mặt bàn/ghế, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường.
- Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
- Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, phân và các chất thải của bệnh nhân phải được thu gom, đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Khi trẻ có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh cần đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn và điều trị.
Mùa hè và mùa thu là thời điểm dễ mắc bệnh tay chân miệng nhất nhất, các cha mẹ cần chủ động phòng chống dịch bệnh cho trẻ và đưa trẻ tới bệnh viện khi có những dấu hiệu sớm để không gây ra biến chứng nguy hiểm.
Ánh Dương
Theo chuyên đề Sức Khỏe Gia Đình
Chủ đề liên quan: