Mô tả: Dây leo to không lông, màu trắng. Lá mỏng, hơi dai, phiến thuôn hay thuôn bầu dục, tròn ở gốc, nhọn mũi, hơi có lông ở mặt trên, ửng vàng ở mặt dưới, dài 5-10cm, rộng 2-5cm, cuống có lông ở mặt trên, dài 10-15mm. Hoa vàng vàng, đốm tía, hình chuông hay hình bánh xe, dài 1cm, xếp thành xim ở nách lá dạng tán hay ngù. Quả đại mập tròn, đường kính 6-8cm, có 2 sóng thấp, chứa nhiều hạt dẹp, dài tới 28mm, rộng 18mm, có cánh rộng 4-5mm, không có mào lông.
Nơi sống và thu hái: Thường mọc dựa rạch vùng còn triều đến rừng ngập mặn, gặp nhiều ở miền Nam Việt Nam, hơi hiếm ở bờ biển phía Bắc. Còn phân bố ở Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Độ, người ta dùng cây, tốt nhất là dùng hạt để diệt các động vật hoang dại như hổ, lợn rừng, có khi dùng diệt cả chó giữ nhà.
Ở Malaixia, người ta cho hạt vào thức ăn, có khi còn thêm cả thạch tín (arsen) để diệt chó có hiệu quả nhanh; họ cũng dùng để diệt các động vật khác: Bò tót, trâu rừng, voi, hổ, với tất cả số lượng hạt có trong quả.
Ở Ấn Độ cũng như ở Malaixia, người ta lấy lá giã ra cùng với hạt Trẩu, hạt Lai thành Thu*c đắp vào các khớp để trị sốt do thấp khớp và còn dùng trị bệnh sốt đỏ (Đăng gơ).
Ở Thái Lan, lá được nấu kỹ dùng để ăn với cari, người ta cũng dùng quả làm mứt. Để làm mứt, cần hái quả lúc còn xanh, bổ đôi ra, lấy hết hạt, dùng mũi nhọn của dao để chích cho ra hết nhựa, rửa sạch, phơi trong râm trong 8 ngày và đun sôi trong một xirô.
Chủ đề liên quan:
Dây cám