Cây thuốc quanh ta hôm nay

Cây dược liệu cây Mỏ quạ, Vàng lồ, Hoàng lồ - Maclura cochinchinensis

Theo Đông Y Mỏ quạ có Vị hơi đắng, tính hơi mát, có tác dụng hoạt huyết khư phong, thư cân hoạt lạc. Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, hoàng đản và ung sang thũng độc.

1.Cây Mỏ quạ, Vàng lồ, Hoàng lồ - Maclura cochinchinensis (Lour.) Corner (Vanieria cochinchinenssis Lour.)

Bộ phận dùng làm Thu*c là rễ và lá, thu hái quanh năm, rửa sạch thái phiến, phơi khô dùng dần. Lá bỏ cuống, dùng tươi.

Mỏ quạ, Vàng lồ, Hoàng lồ (Tên khoa học: Maclura cochinchinensis) là loài thực vật thuộc họ Dâu tằm. Loài này phân bố từ Trung Quốc, qua Đông Nam Á đến Australia

Mô tả: Cây bụi, sống tựa, có cành dài mềm, thân có nhựa mủ trắng như sữa. Vỏ thân màu xám có nhiều lỗ bì màu trắng. Thân và cành có nhiều gai cong quặp xuống trông như mỏ con quạ. Lá mọc so le, hình trứng thuôn, dài 3-8cm, rộng 2-3,5cm, gốc nhọn, nhẵn bóng ở mặt trên; cuống lá mảnh, có lông. Cụm hoa hình đầu, đơn tính, khác gốc, mọc ở nách lá, màu vàng nhạt. Quả nạc hình cầu mềm hơi cụt ở đầu, khi chín màu vàng; hạt nhỏ.

Ra hoa tháng 4-5 có quả tháng 10-12.

2.Thông tin mô tả Công dụng và tác dụng, Dược Liệu

Bộ phận dùng: Rễ và lá - Radix et Folium Maclurae Cochinchinensis.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở các nước nhiệt đới Á châu, Ðông Phi châu, Úc châu. Ở nước ta, cây mọc hoang ở đồi núi, ven đường và được trồng làm hàng rào từ Lào Cai, Vĩnh Phú đến Quảng Trị, Lâm Ðồng và Ðồng Nai. Thu hái quanh năm, rửa sạch thái phiến, phơi khô dùng dần. Lá thu hái quanh năm, bỏ cuống, dùng tươi hoặc nấu cao.

Thành phần hóa học: Rễ và lá chứa flavonoid, tanin pyrocatechic và acid hữu cơ.

Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, tính hơi mát, có tác dụng hoạt huyết khư phong, thư cân hoạt lạc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, hoàng đản và ung sang thũng độc. Liều dùng: 12-40g dạng Thu*c sắc. Cũng thường phối hợp với các vị Thu*c khác. Lá có thể dùng cho tằm ăn và dùng chữa các vết thương phần mềm.

Ở Thái Lan, người ta còn dùng gỗ trị sốt mạn tính làm Thu*c bổ và trị ỉa chảy.

Đơn Thu*c:

1. Chữa lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu: Mỏ quạ 40g, Dây Rung rúc 30g, Bách bộ và Hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g sắc uống.

2. Chữa kinh giản, lên cơn hằng ngày hay 3-4 ngày phát một lần: Dùng Mỏ quạ, hạt Cau, Thảo quả, mỗi vị 20g sắc uống (theo Hoạt nhân toát yếu).

3. Chữa vết thương phần mềm (theo kinh nghiệm của cụ lang Long ở Hải Hưng): lá Mỏ quạ tươi, lấy về rửa sạch bỏ cuống, giã nhỏ đắp vào vết thương. Mỗi ngày dùng lá Trầu không nấu nước, pha thêm một cục phèn 8g hoà tan rửa vết thương, rồi đắp Thu*c mới, độ 3-5 ngày là khỏi. Nếu vết thương xuyên thủng thì đắp hai bên dính lại ngày làm một lần. Nếu vết thương thịt chậm đầy, lâu kéo miệng thì dùng lá Mỏ quạ tươi với lá Bòng bong, hai vị bằng nhau giã đắp và thay Thu*c sau khi rửa vết thương mỗi ngày một lần như trên. Sau 3-4 ngày thì giã thêm lá Hàn the, ba thứ bằng nhau giã đắp và thay Thu*c 3 ngày một lần để vết thương mau lên da non và gom miệng.

Sau 2-3 lần băng với ba vị Thu*c trên, dùng Thu*c bột chế với phấn cây Cau (sao khô) 20g, phấn cây Chè (sao khô) 16g, Bồ hóng 8g, Phèn phi 4g tán rắc vết thương rồi để yên cho đóng vẩy và róc thì thôi.

Mạng Y Tế
Nguồn: Y dược học (https://www.ydhvn.com/lists/cay-duoc-lieu-cay-mo-qua-vang-lo-hoang-lo-maclura-cochinchinensis)

Tin cùng nội dung

  • Loài của Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta cũng mới chỉ gặp ở vùng Chân Mộng, tỉnh Vĩnh Phú. Người ta dùng rễ. Thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ phơi khô để dùng
  • Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, hoàng đản và ung sang thũng độc
  • Cây mỏ quạ còn có tên khác là hoàng lồ, vàng lồ, mỏ diều, sọng vàng, gai mang, móc câu… Rễ mỏ quạ có tên xuyên phá thạch (Radix Cudraniae)...
  • Theo Đông y, mỏ quạ gai có vị đắng nhẹ, tính mát. Có tác dụng lương huyết, thông mạch máu, tan máu tụ, chủ trị chấn thương sưng đau, phong thấp lưng gối đau mỏi, phụ nữ kinh bế, còn hỗ trợ chữa lao phổi, viêm gan...
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY