Đặc điểm sinh học và sinh thái học: Phân bố tự nhiên ở miền trung và nam Trung Quốc, Đài Loan, bắc Lào và Việt Nam. Loài từ lâu được coi là loài bản địa của Việt Nam vì đã được nhập trồng thành công ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, ở các vùng núi có độ cao trên 700 m như Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lạng Sơn và rất thích hợp cho việc trồng cảnh quan trong các thành phố, khu nghỉ mát như Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo, Ba Vì. Loài cây này cũng đã được trồng rất thành công ở nam Trung Quốc.
Cây gỗ cao tới 40m hay hơn, có nhánh thường rụng. Lá xếp theo một mặt phẳng ngang, cứng, dai, dài 3-7cm, rộng 3-4mm, hình dải, có chóp nhọn, mép răng cưa, cong xuống dưới với một dải lỗ khí màu trăng trắng ở mặt dưới lá; ở phía này hoặc phía kia của gân giữa. Hoa đực xếp cụm 15-20 cái, hình trụ thành đuôi sóc ở ngọn, xếp thành nhóm 5-6 cái một. Hoa cái hình trứng, đơn hay cụm lại. Nón dài 3-4cm, rộng 3cm ở gốc, vẩy có răng, có chóp hình tam giác, tận cùng thành mũi thon. Hạt hình trái xoan, có cánh hẹp.