Cây hột mát là một cây to, cao từ 8-24m. Lá kép lông chim, gồm 5-7 hoặc 9 lá chét, mọc đối, phiến lá chét dai, nhẵn, dài 7-11cm, rộng 3-4cm. Cuống chung dài 9-12cm, cuống lá chét dài 6-7mm. Cụm hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc ở đầu cành. Hoa màu hồng hay tím nhạt. Quả giáp dài 6cm, rộng 3,5cm, không cuống, dày 1,5-12mm. Mỗi quả có 1 hạt. Hạt hình trứng dài I6mm, rộng 14mm, dày 8-10mm, màu đỏ nâu, bóng.
Cây mọc hoang tại miền rừng núi Việt Nam, nhưng nhiều và hay được sử dụng tại miền nam Trung bộ và Nam Bộ. Tại Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Bố Trạch, Quảng Trạch (Quảng Bình) nhân dân thường trồng quanh vườn.
Năm 1940, F. Guichard (Rev. Med. Chirurg Fr. Exír. Orìent, 3) đã nghiên cứu sơ bộ hột mát và thấy trong hột mát có một số chất dầu, các chất gôm, một số chất nhựa có độc tính đối với cá, một ít rotenon một chất có tinh thể hình lãng trụ, chảy ở 2570, cho màu vàng đỏ với axit suníuric, không tan trong nước; một chất có tinh thể hình kim màu vàng, độ chảy 195°, cho với axit suníuric màu đỏ máu, không phải ancaloit, cũng không phải glucoát, không độc đối với cá, một saponin trung tính độc và một chất saponin axit.
Năm 1940, F. Guichard tán bột hột mát cho vào nước có nuôi cá thì thấy những con cá này có một thời kỳ kích thích ngắn, sau đó đến thời kỳ say dài hay ngắn tùy theo cá to nhỏ, cuối cùng cá ch*t.
Hiện cây này không được dùng làm Thu*c. Nhân dân chỉ dùng hạt tán nhỏ, cho xuống nước để duốc cá. Có thể nghiên cứu để làm thuóc trừ sâu bọ hại hoa màu.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
cây hột mát