Cây thảo cao 15 - 50cm. Rễ phình thành củ, dạng con thoi. Nhánh mọc đứng có lông màu hung đỏ. Lá có một lá chét thuôn dài, dài 2,5 - 6cm, rộng 1 - 2cm, tù ở gốc, hơi nhọn mũi ở đầu, có lông mềm ở mặt trên và có lông rậm màu trăng trắng ở mặt dưới; gân phụ 5 - 7 đôi, hướng lên; cuống lá có lông cứng, dài 2mm; lá kèm dạng sợi. Cụm hoa chùm ngắn, 6 -10mm ở nách lá, có 1 - 3 hoa hầu như không có cuống; đài hình chuông có lông, với 5 thuỳ rời; các cánh hoa màu vàng; nhị 2 bó; bầu 2 noãn, có lông màu trắng. Quả đậu có lông rậm, màu hung đỏ, hình trái xoan bầu dục, chứa hai hạt màu đen, hình thận, gần như hình móng ngựa.
Loài phân bố ở nhiều nước Đông Nam á và Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc hoang, thông thường ở các rừng thưa, rừng thông, các savan, và cả dọc đường đi, trên đất cát từ vùng thấp tới vùng cao 1500m. Thu lượm củ vào đầu mùa xuân, cuối mùa thu, rửa sạch, thái miếng, phơi khô.
Củ có vị ngọt, hơi se, tính bình, có tác dụng làm mát phổi, hoá đờm, sinh tân dịch, khỏi khát, mát máu, tiêu sưng.
Thường dùng trị 1. ho gió có đờm hoặc ho khan, viêm đường hô hấp trên, phát sốt bồn chồn, khát nước; 2. áp xe phổi; 3. lỵ. liều dùng 15 -30g dạng Thuốc sắc; dùng riêng hoặc phối hợp với các vị Thuốc khác. dùng ngoài giã tươi đắp chữa vấp ngã bị thương, dao chém gây thương tích. nhân dân cũng thường dùng rễ cây đậu dại làm Thuốc bồi bổ cho trẻ em sau khi lên sởi bị suy nhược.