Cây to, cao đến 15m. Thân có gai và có bạnh vè ở gốc. Lá kép chân vịt, mọc so le. Hoa màu đỏ mọc thành chùm, nở trước khi cây ra lá. Quả nang to. Hạt có nhiều lông như sợi bông trắng dài.
Loài của vùng Ân Độ, Malaixia, mọc hoang và cũng được trồng. Thu hái hoa vào mùa xuân; thu hái rễ vào mùa xuân hay mùa thu, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô thu hái vỏ vào mùa hè-thu.
Hoa chứa nhiều acid amin, pectin tanin, đường, nhiều nguyên tố vi lượng. Nhựa chứa acid catechutannic. Hạt chứa 22,3% dầu béo khô với 0,5% stearin. Rễ của cây non có chứa protein 1,2%, chất béo 0,9%, phosphatid (cephaclin) 0,6% semul đỏ 0,5% tanin 0,4% arabinose và galactose 8,2% chất có pectin 6,9% và tro 71,2%. Chất nhầy trong vỏ biểu hiện của một ester salicophosphoric của manogalactan.
Hoa có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu. Vỏ có vị đắng, tính mát; có tác dụng lợi tiểu, tiêu sưng, gây nôn. Rễ đắng, mát, có tác dụng kích thích, bổ, cũng gây nôn và giảm đau. Nhựa K*ch d*c, làm nhầy, cầm máu, làm săn da, bổ và gây khát.
Hoa được dùng trị viêm ruột, lỵ. cũng dùng như trà uống vào mùa hè. nước hoa gạo được xem như một dung dịch bổ âm, dùng chữa thiếu máu suy nhược hoặc do các nguyên nhân khác (rong kinh, đa kinh, chảy máu dạ dày - tá tràng, mất máu sau mổ vết thương, sỏi thận mà tuỷ xương bình thường) và do cả trường hợp suy tuỷ. vỏ dùng trị thấp khớp, đụng giập gãy xương, bọc máu. cũng dùng cầm máu trong các chứng băng huyết, (phối hợp với rễ non và hạt cây tươi). rễ dùng chữa đau thượng vị, viêm hạch bạch huyết dạng lao và làm Thuốc lợi tiểu. gôm của cây gạo cho vào nước chữa bệnh lậu. nhựa dùng chữa lỵ ỉa chảy và rong kinh. đĩa mật trong hoa dùng lợi tiểu và tẩy. ở ân độ, người ta dùng rễ làm Thuốc K*ch d*c cho trường hợp bất lực và dùng hoa, quả trị rắn cắn.
1. lỵ: hoa gạo, kim ngân, cỏ sẹo gà, mỗi vị 15g. đun sôi lấy nước uống. 2. đau vùng thượng vị: rễ hay vỏ gạo 30g, rễ hoàng lức 6g. đun sôi uống.
Chủ đề liên quan:
cây thuốc bổ âm