Mô tả: Cây thảo sống dai, cao 20-40cm hay hơn, có thân mang hoa mọc đứng, khía rãnh dọc chiều dài. Lá không cuống, hẹp, rìa phiến lại chia ra thành rất nhiều các đoạn rất sâu, nhọn và có răng ở mép. Ðầu hoa màu trắng hay hồng, xếp thành ngù rộng ở ngọn; lá bắc thuôn, rất tù, với một cạnh khỏe ở lưng. Quả bế xoan, thuôn dẹp.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở vùng núi cao các tỉnh Lao Cai (Sapa), Sơn La và Lâm Ðồng (Ðà Lạt) trong các savan cỏ trên đường đi, rìa rừng và đất hoang. Thu hái cây lúc có hoa, dùng tươi hay phơi trong râm đến khô.
Thành phần hoá học: Cây chứa tinh dầu, chất nhựa, tanin, phosphat, nitrat, muối kali, acid hữu cơ. Glucosid đắng đã biết là achillein; nó là một glucosid cyanogenetic hay một glucoalcaloide. Còn một alcaloid kết tinh gọi là betonicin.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt, đắng, cay, tính hàn, có ít độc; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tiêu thũng, chỉ thống, điều kinh. Trong Tây y, người ta cho nó là chất kháng viêm và chống co thắt, kích thích nội tiết các dịch tiêu hóa (giúp ăn ngon) nó điều hòa và chống co thắt trong chứng rối loạn kinh nguyệt, và còn là chất làm tan sưng. Nhưng với liều cao nó gây chóng mặt và đau đầu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ðược dùng chữa: 1. Mệt mỏi toàn thân, ăn uống không ngon, trướng bụng, ỉa chảy; 2. Ho, hen suyễn; 3. Kinh nguyệt không thông, hành kinh đau bụng, rối loạn khi mãn kinh; 4. Thấp khớp, thống phong; 5. Sỏi mật và sỏi niệu; 6. Trĩ, sốt liên miên. Liều dùng 4-12g, dạng Thu*c hãm uống hay phối hợp với các vị Thu*c khác. Dùng ngoài trị bạch đới, lậu, trĩ, đau khớp, viêm da, viêm mủ da, mụn nhọt, nứt da, cầm máu các vết thương, rắn cắn, chó cắn... lấy cây tươi giã đắp.