Dây leo cỏ nhiều năm, dài 3-10 m; rễ củ mầu trắng có tinh bột, dài tới 15-20 cm; rãnh dọc theo thân, tua cuốn 3-5. Lá mọc so le; phiến dài 5-14 cm, rộng 3-5 cm, xẻ 3-5 thuỳ, thường gặp 5. Lá dầy, dai, mặt trên sờ nháp; cuống dài 3-4 cm; thân và cuống lá có bì khổng trắng. Hoa đơn tính, khác gốc; cụm hoa đực dài 15-18 cm, hoa tập trung ở phía đỉnh, lá bắc to, có răng; tràng to rộng 7 cm, màu trắng, phần ống tràng dài 3,5-4 cm, cánh hoa dài 2,5 cm; nhị 3; hoa cái mọc đơn độc có cuống dài 3 cm; bầu hình trứng có lông; vòi nhuỵ không vượt ra ngoài ống tràng, núm nhuỵ 3 hình dải. Quả mọng tròn, đường kính 8-10 cm, khi chín mầu vàng cam, hạt nhiều, tròn dẹt, dài 11-16 mm, rộng 7-12 mm, lớp vỏ lụa màu vàng xanh bao bên ngoài.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 6-8, có quả tháng 9-10. Tái sinh tự nhiên chủ yếu bằng hạt. Thường mọc ở ven rừng thưa hoặc rừng cây bụi trên đất pha cát, ở độ cao tới 300 m.
Bộ phận dùng: Quả - Fructus Trichosanthis, thường gọi là Qua lâu. Vỏ quả hay Qua lâu bì - Pericarpium Trichosanthis. Hạt hay Qua lâu tử - Semen Trichosanthis, và rễ củ hay Thiên hoa phấn - Radix Trichosanthis.
Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc trên đất rừng bên khe hay mé đường vùng núi Cao Bằng và cùng mọc trên đất cát hoang ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Cũng được trồng bằng hạt vào mùa xuân. Thường những cây lấy hạt thì củ nhỏ cho nên muốn lấy củ mập thì phải ngắt bỏ hoa, không cho kết quả để tập trung chất dinh dưỡng ở rễ củ cho củ to và nhiều bột.
Quả thu hái vào tháng 9-10 lấy vỏ quả và hạt phơi khô. Rễ củ thu hái vào mùa đông, đào về rửa sạch, gọt bỏ vỏ ngoài, cắt từng đoạn, đem ngâm vào nước sôi trong một tuần lễ, lấy ra phơi khô dùng làm Thu*c.
Tính vị, tác dụng: Qua lâu có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt hoá đàm, khoan hung tán kết, nhuận tràng. Hạt và quả Qua lâu có vị ngọt, đắng, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt hoá đàm, nhuận phế, chống ho, nhuận tràng. Nếu để nhân hạt mà dùng sẽ sinh nôn nao khó chịu, buồn mửa, do vậy khi dùng phải ép bớt dầu. Rễ củ Qua lâu có vị ngọt, chua, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt giáng hoả, sinh tân dịch, nhuận táo, bài nung, tiêu thũng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Qua lâu được dùng trị phế nhiệt sinh ho, ho có nhiều đờm đặc, yết hầu sưng đau, sưng vú, đại tiện táo kết. Hạt và vỏ quả dùng chữa sốt nóng khát nước, ho khan, thổ huyết, mụn nhọt, đại tiện táo bón. Rễ củ dùng chữa nóng sốt âm, các chứng nhiệt, miệng khô khát nước, hoàng đản, đau vú, lở ngứa, sưng tấy. Liều dùng: Qua lâu 9-15g. Qua lâu tử 9-15g. Qua lâu bì 6-9g và Thiên hoa phấn 10-15g (tới 20g), dạng Thu*c sắc.
1. Chữa bệnh tiêu khát, đái tháo đường, khát nước uống nhiều và nóng ruột, ăn nhiều mà gầy róc. Thiên hoa phấn, Hoài sơn, đều 12g, tán bột uống hay sắc uống hàng ngày.
2. Chữa mụn nhọt mưng mủ liên miên không ráo: Thiên hoa phấn 12g, ý dĩ sao 10g và Bạch chỉ 8g tán bột hay sắc uống.
3. Chữa hoàng đản, viêm tuyến sữa, mụn lở có mủ: Thiên hoa phấn 16g, Mộc thông, Bồ công anh đều 12g, sắc uống.
4. Viêm cổ họng mất tiếng: Qua lâu bì 10g, Bạch cương tàm 10g, Cam thảo 10g, Gừng tươi 4g, nước 500ml, nấu còn 150ml, chia 2 lần uống trong ngày.