Thông là một loại cây to, cao tới 20-30m đường kính thân có thể tới 2m, thân thẳng vò xù xì, nứt nẻ. Lá hình kim bao giờ cũng xanh tươi, chỉ có một gân nhỏ, mọc tụ hai hay ba lá, tùy theo loài. “Hoa” là những khối hình nón gần như không cuống.
Thông hai lá còn gọi là thông nhựa (Pinus merkusìi Jungh et De Vries) thuộc họ Thông Pinaceae: cây gỗ cao, lá hình kim dài, xanh đậm hai lá trong một bẹ chung. Nón cái lớn, hóa gỗ, lá bắc dày cứng, hạt có cánh dẹt, cho nhiều nhựa, do đó mang tên thông nhựa.
Thông hai lá còn gọi là thông đuôi ngựa (Pinus massoniana Lambert) cùng thuộc họ Thông Pinaceae: giống cây trên, thân có vỏ nứt, mảnh tán dày, dựng đúng. Cây cho ít nhựa, thường mọc xen kẽ với cây thông nhựa.
Ở miền nam Trung Bộ và Cămpuchia còn có thông ba lá (Pinus khasya Royle) thuộc cùng họ Thông Pinaceae: Mỗi bẹ có ba lá.
Tại Trung quốc, ở Quảng Đông và Phúc Kiến, người ta khai thác cây thông đuôi ngựa (mã vi tùng) (Pinus massoniana Lambert) và miền bấc Trung Quốc khai thác cây du tùng (Pinui tabulaeformis Carr) thuộc cùng họ.
Ở miền Bắc Việt Nam thông được trồng tập trung nhiều nhất ở Quảng Ninh, người ta ước tính thông chiếm hàng vạn hecta chạy suốt từ đông sang tây, sau đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, một ít ở Bắc Cạn, Thái Nguyên.
Tại miền Nam, trên cao nguyên Langbiang giữa Phan Rang-Phan Thiết thông chiếm diện tích khoảng chục vạn héc ta Lào, Cămpuchia cũng đểu có.
Thông ưa đất cát. Trồng thông bằng hạt. Sau 4-5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.
Thường trồng thông sau 15-20 năm mới bắt đầu khai thác nhựa. Khi ấy cây có đường vòng chừng 60cm. Thường người ta phân biệt hai loại thông: thông để sông lâu, thì cứ 4 năm lấy nhựa một lần và chỉ lấy nhựa khi nơi thân cây cách mặt đất l,5m có đường vòng lm. Loại thông cần chặt đi cho quang bớt thì lấy nhựa cho đến hết. Sau đó ngả cây. Cây thông cho nhựa nhiều nhất vào năm 60 tuổi, sau đó lượng nhựa giảm dần.
Thời gian lấy nhựa bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10. Nhung ngay từ tháng hai, người ta đã cạo cho mỏng bớt vỏ trên một khoang rộng 10- 15cm, dài 60-80cm. Đến tháng ba, người ta dùng một loại cuốc nhỏ riêng đẽo một mảnh vò rộng khoảng 9cm, sâu 1 cm, vào lớp gỗ giác cao 3- 4cm.
Nhựa chảy từ vết thương ra nhưng rồi rất chóng ngừng lại. Đó là giai đoạn chảy nhựa ban đầu có tính chất S*nh l*: Phần nhựa dự trữ trong cây bị dốc ra. Quanh vết thương sẽ thành một lớp gỗ mới với rất nhiêu mạch bài tiết. Cạo lần sau, nhựa sẽ chảy lại; nhựa chảy lần này do tính chất bệnh lý. Hễ thấy ngừng chảy lại nạo lại, mổi tuần nạo một lần. Năm đầu đẽo cao khoảng 60cm, năm thư tư chừng 3m.
Muốn giữ cây sống lâu, cứ sau bốn năm lấy nhựa lại nghỉ một năm. Năm đầu nạo ở phía đông, năm sau nạo cách chỗ năm trước 120°. Nhựa chảy ra theo máng kẽm dính vào thân cây dượt hứng vào một bình nhỏ bằng sành. Sau đó cho vào một thùng sắt hay gỗ thể tích 17-18 lít.
Ở Quảng Nính, một cây thông trung bình cho khoảng 18% tinh dầu và 60 % tùng hương (côlôphan), như vậy mỗi cây một năm cho khoảng 700g tinh dầu và 2 kg côlòphan. Nếu lấy kiệt cho đến ch*t, thì một cây có thể cho tới 8kg nhựa hay hơn nữa. Năng suất một hecta thay đổi tùy theo tuổi của cây và số cây. Số cây trong một hecta lúc đầu nhiều, sau 20 năm còn chừng 750 cây, sau 35 năm còn 250 cây, về sau chỉ để 70-100 cây trên một hecta. Trung bình một hecta cho khoảng 350-400kg nhựa. Những năm mưa năng suất nhựa kém hơn, nhưng tỷ lệ tinh dầu lại cao hơn các năm khô ráo.
Riêng trong năm 1955, tại Hoàng Mai (Nghệ An) cho được 700 lít tinh dấu mỗi tháng, tính ra một năm có thể được 20 tấn tinh dẩu và 40 tấn tùng hương.
Nhựa thông thu hoạch về có thể đem tinh chế để sử dụng: Cho nước vào nhựa rồi đun nóng. Cạn và nước sẽ lắng xuống dưới. Nhựa tốt nổi à trên.
Muốn chế tùng hương, người ta cho nhựa thống và nước vào nồi rồi cất kéo hơi nước: Tinh dầu sẽ cất theo hơi nước, ta được tinh dầu thông, chất còn lại trong nồi cất là tùng hương (côlôphan). Nếu trước khi cất tinh dầu, nhựa thông đã được tinh chế thì tùng hương sẽ sạch và ít tạp chất. Nếu nhựa thông chưa được tinh chế trước khi cất tinh dầu thì sau khi cắt, ta phải tình chế lại tùng hương với nước. Chất bẩn sẽ lắng trong nước. Nếu cần dùng dung môi như benzen để hòa tan và lọc.
Trong tùng hương thành phần chủ yếu là anhydrit abietic, và một ít axit abìetic, tất cả khoảng 80%. Ngoài ra còn một ít recsen, một ít tinh dầu (khoảng 0,5%) và một ít chất đắng.
Nhựa thông, tinh dầu thông và tùng hương có nhiều công dụng trong công nghiệp sơn, mực v.v..., cho nên nhựa thông, tinh dầu thông, tùng hương thuộc loại tinh dầu và nhựa có nhu cầu to lớn, sản lượng to lớn trên thế giới.
Theo tài liệu cổ: tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn độc, có tác dụng táo thấp, khư phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng (hết đau, hết mủ). thường dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở.
Cao tùng hương (tùng chi cao) (trích trong chính trị chuẩn thẳng) dùng chữa những mụn nhọt lâu ngày không liền miệng:
Tùng hương, hoàng liên, hoàng cám, khổ sâm, sà sàng tử, đại hoàng, khô phàn, hồ phấn, thủy ngân tất cả tán nhò, đun với mỡ lợn dán lén mụn nhọt.
Nguồn: Internet.