Theo y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, rất nhiều loại hạt như hạt gấc, hạt táo, hạt chanh, hạt mướp đắng, hạt bưởi, hạt vải…
Hạt mận có tác dụng giảm đau, lợi tiểu, nhuận táo. Hạt vải tính ôn, có tác dụng ôn trung, lý khí, tán kết, chỉ thống. Hạt mướp đắng tính ấm thanh nhiệt, tiêu khát, chữa ho... Mỗi
loại hạt đều mang tính vị riêng, có công dụng chữa bệnh khác nhau. Để có thể tham khảo và áp dụng được hiệu quả, dưới đây chúng tôi xin giới thiệu tác dụng trị liệu của một số
loại hạt để bạn đọc tham khảo.
Hạt vải
Rửa sạch, thái nhỏ, tẩm nước muối, sao hoặc đốt tồn tính. Cũng có thể đồ chín, thái mỏng, phơi, sấy khô. Dược liệu có vị đắng, ngọt chát, tính ôn, có tác dụng chữa bệnh trong những trường hợp sau:
Chữa đau dạ dày: Hạt vải, mộc hương, nghiền thành bột, uống với nước ấm, ngày 3 lần, mỗi lần 4-6g.
Chữa thống kinh, đau bụng khi hành kinh hoặc sau sinh: Hạt vải đốt tồn tính 20g, hương phụ 40g. Tất cả tán nhỏ, trộn đều, mỗi lần uống 8g với nước cháo, nước cơm.
Chữa tiểu đường: Hạt vải đem sấy khô, tán mịn. Cho vào lọ nút kín dùng dần. Mỗi lần uống 10g, ngày uống 3 lần, trước bữa ăn. Liệu trình 3 tháng.
Phòng sỏi mật: Hạt vải 20g, hạt quýt 20g, trần bì 10g, hồng táo 2 trái, nước 400ml, sắc uống thay trà.
Chữa tinh hoàn sưng đau: Hạt vải, trần bì, hồi hương; ba vị liều lượng bằng nhau, tất cả tán thành bột mịn, trộn đều. Ngày uống 3 lần; mỗi lần uống 4 - 6g, dùng rượu hoặc nước ấm chiêu Thuốc.
Hạt gấc
Đập vỡ vỏ cứng lấy nhân. Dược liệu có vị đắng, hơi ngọt, tính ôn, hơi độc có tác dụng tiêu ôn, tán ứ.
Chữa sưng vú, ứ huyết, mụn nhọt: Mài nhân hạt gấc với một ít rượu cho đến khi dung dịch có màu trắng như sữa. Bôi nhiều lần trong ngày.
Chữa trĩ, quai bị: Nhân hạt gấc để tươi hoặc phơi khô, giã nhỏ, hòa với giấm thanh, thấm vào gạc sạch đắp vào chỗ đau băng lại, ngày thay Thuốc một lần.
Chữa chai chân: Nhân hạt gấc, giữ cả màng hạt, giã nát thêm một ít rượu trắng, bôi vào nơi tổn thương nhiều lần trong ngày.
Chữa vết thương phần mềm trong những trường hợp chấn thương, tụ máu: Hạt gấc đốt vỏ ngoài cháy thành than cho vào cối giã nhỏ, ngâm với rượu trắng (khoảng 30 hạt thì cho 400ml rượu). Dùng dung dịch ngâm này bôi vào vết thương.
Hạt táo (táo ta)
Ngâm hạt vào nước lã, rửa sạch, phơi khô, đập bỏ vỏ ngoài lấy nhân. Đồ nhân cho chín rồi phơi giòn, gọi là táo nhân (toan táo nhân), sao đen để giảm độc gọi là hắc táo nhân. Dược liệu có vị chua, tính bình, có tác dụng an thần, trị tâm thần bất an, tim đập hồi hộp, mất ngủ, chóng mặt, chân tay nhức mỏi, mồ hôi trộm. Liều dùng 4 - 12g. Không dùng táo nhân quá liều gây ngộ độc. Trường hợp cảm nóng, sốt không được dùng.
Chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh: Hắc táo nhân 8g, củ bình vôi 8g, liên tâm 6g, phục linh 5g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần, uống ấm, uống liền 10-15 ngày là một liệu trình.
Chữa mồ hôi trộm: Táo nhân, phục linh, nhân sâm, lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa cà phê với nước cơm hoặc nước cháo.
Thuốc bổ can thận: Táo nhân 8g, hà thủ ô đỏ (chế) 12g, thục địa 12g, mạch môn 12g. Sắc uống ngày một thang.
Trị tâm thần bất an, hồi hộp hay hoảng hốt, bồn chồn, ngủ hay mê: Hắc táo nhân 6g, thảo quyết minh (sao đen), long nhãn, thục địa, liên nhục, mạch môn, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang, uống khi Thuốc còn ấm, uống liền 10-15 ngày là một liệu trình.
Hạt bưởi
Vừa tách khỏi múi bưởi đem ngâm ngay vào nước trong vài giờ. Chất nhầy bao quanh hạt sẽ nở và tan ra cho một dung dịch đặc nhầy, không màu. Gạn lấy nước này để uống chữa táo bón, trị rối loạn lipit máu, tiểu đường týp 2, giảm béo, cầm máu, chống táo bón, kháng khuẩn...Hạt bưởi ít có thể bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh. Nếu lượng hạt bưởi nhiều thì phơi hoặc sấy khô vỏ ngoài, bảo quản dùng dần. Khi dùng cho hạt bưởi vào cốc, rót nước đun sôi vào để ngâm 15 phút, rồi gạn nước nhầy để uống. Làm tiếp như vậy một vài lần, nếu hết nước nhầy thì thôi.
Trị rối loạn lipit máu, tim mạch, táo bón, hỗ trợ tiêu hóa: Uống 50ml nước nhầy từ hạt bưởi, ngày 2 lần, giữa các bữa ăn.
Chữa chảy máu cam, chảy máu chân răng, rong kinh, đa kinh...: uống 30ml nước nhầy từ hạt bưởi, ngày 3 lần.
Hạt nhãn
Vị chát, tính bình có tác dụng cầm máu, giảm đau, điều hòa khí huyết chủ trị chấn thương xuất huyết, mụn nhọt lở ngứa.
Cầm máu vết thương: Hạt nhãn cạo bỏ vỏ đen, lấy phần trắng bên trong, thái mỏng, sấy khô, tán bột mịn, rắc vào vết thương.
Chữa lở ngứa kẽ ngón tay, ngón chân, đau nhức: Hạt nhãn đốt cháy thành than, tán nhỏ rắc vào vết thương.
Chữa nhọt sưng: Bột hạt nhãn hòa với nước sâm sấp, đắp vào nơi tổn thương.
Chữa tiểu tiện khó: Hạt nhãn cạo bỏ vỏ, giã nát, thêm nước sắc uống.
Chữa đau bụng, thoát vị bẹn: Hạt nhãn, hạt vải, tiểu hồi hương, lượng bằng nhau sấy khô, tán bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g với nước sắc cây thăng ma, uống vào lúc đói.
Hạt mướp đắng
Thu hoạch ở những quả chín, loại bỏ lớp bao bên ngoài, rửa sạch phơi hoặc sấy khô. Khi dùng để sống hoặc sao vàng. Dược liệu có vị đắng, hơi ngọt, tính ấm có tác dụng thanh nhiệt, nhuận tràng, bổ thận, giảm ho, tiêu khát, lợi tiểu, giải độc.
Chữa ho khan, ho có đờm, ho lâu ngày: Hạt mướp đắng, hạt chanh lượng bằng nhau (40 hạt), tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với nước mật gà (20 cái), phơi khô, tán lại, luyện Thuốc với mật ong hoàn viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6-8g.
Chữa rắn cắn: Hạt mướp đắng 10g, hạt chanh 15g, củ gấu 50g, thạch xương bồ 12g, tất cả để tươi, thêm nước sôi âm ấm, cho vào máy sinh tố, xay, lọc lấy nước, chia uống 2 lần. Mỗi lần 30ml, cách nhau nửa giờ.
Khánh Mai