Trong quá trình sử dụng Thuốc, ngoài tác dụng điều trị, đôi khi còn gặp những tác dụng "không mong muốn" do sự phản ứng khác nhau của từng cá thể với Thuốc.
Một phản ứng có hại của Thuốc là một p hản ứng độc hại, không định được trước và xuất hiện ở liều lượng thường dùng cho người (Định nghĩa của Chương trình giám sát Thuốc quốc tế - WHO).
ADR là tên gọi chung cho mọi triệu chứng bất thường xẩy ra khi dùng Thuốc đúng liều. Có thể chỉ là những triệu chứng rất nhẹ như nhức đầu, buồn nôn... cho đến những triệu chứng rất nặng dẫn đến Tu vong như sốc, phản vệ, suy tuỷ xương. Tuỳ theo nước và tuỳ theo tác giả, ADR có thể xẩy ra khoảng 8- 30% số người dùng Thuốc.
Do Thuốc là 1 protein lạ (insulin, thyroxin lấy từ súc vật), là đa peptid, polysaccharid có phân tử lượng cao, mang tính kháng nguyên. Tuy nhiên, những Thuốc có phân tử lượng thấp hoặc chính sản phẩm chuyển hóa của nó cũng có thể gây dị ứng, chúng được gọi là bán kháng nguyên hay "hapten". Vào cơ thể, hapten có khả năng gắn với một protein nội sinh theo đường nối cộng hóa trị và tạo thành phức hợp kháng nguyên.
Những Thuốc có mang nhóm NH2 ở vị trí para, như benzocain, procain, sulfonamid, sulfonylurea... là những Thuốc dễ gây mẫn cảm vì nhóm NH 2 dễ bị oxy hóa và sản phẩm oxy hóa đó sẽ dễ gắn với nhóm SH của protein nội sinh để thành kháng nguyên.
- Typ I hay phản ứng phản vệ (anaphylactic reactions) do sự kết hợp của kháng nguyên với kháng thể IgE, gắn trên bạch cầu ưa base tuần hoàn hoặc các dưỡng bào. Phản ứng làm giải phóng nhiều chất hóa học trung gian như histamin, leucotrien, prostaglandin, gây giãn mạch, phù và vi êm. Các cơ quan đích của phản ứng này là đường tiêu hóa (dị ứng thức ăn), da (mày đay, viêm da dị ứng), đường hô hấp (viêm mũi, hen) và hệ tim - mạch (sốc phản vệ)
Các Thuốc dễ gây phản ứng typ I: thuố c tê procain, lidocain, kháng sinh nhóm β lactam, aminoglycosid, huyết thanh, g globulin, vaccin, vitamin B1 tiêm tĩnh mạch.
- Typ II hay phản ứng huỷ tế bào (cytolytic reactions) xẩy ra khi có sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể IgG và IgM đồng thời có sự hoạt hóa hệ bổ thể. Mô đích của phản ứng này là các tế bào của hệ tuần hoàn. Thí dụ: thiếu máu tan máu do penicilin, thiếu máu tan máu tự miễn do methyl dopa, ban xuất huyết giảm tiểu cầu do quinidin, giảm bạch cầu hạt do sulfamid, luput ban đỏ hệ thống do procainamid.
- Typ III hay phản ứng Arthus, trung gian chủ yếu qua IgG có sự tham gia của bổ thể. Phản ứng giữa kháng nguyên và kháng thể tạo thành phức hợp miễn dịch. Phức hợp này lắng đọng vào nội mạc mạch, gây tổn thương viêm huỷ hoại, được gọi là bệnh huyết thanh. Biểu hiện lâm sàng thường là: mày đay, ban đỏ, đau, viêm khớp, nổi hạch, sốt. Thường xẩy ra sau 6 - 12 ngày.
Các Thuốc có thể gặp là sulfonamid, penicilin, một số Thuốc chống co giật, iod, muối Hg, huyết thanh.
- Typ IV hay phản ứng nhạy cảm muộn, trung gian qua tế bào lympho T đã được mẫn cảm và đại thực bào. Khi các tế bào mẫn cảm tiếp xúc với kháng nguyên, sẽ giải phóng các lymphokin gây ra phản ứng viêm. Viêm da tiếp xúc là biểu hiện thường gặp của typ này.
Các phản ứng dị ứng Thuốc không liên quan đến liều lượng Thuốc dùng, số lần dùng và thường có dị ứng chéo. Vì vậy cần hỏi tiền sử dị ứng của bệnh nhân trước khi dùng Thuốc. Với những Thuốc hay gây dị ứng (penicilin, lidocain,...) khi dùng, phải có sẵn Thuốc và phương tiện cấp cứu (adrenalin). Sốc phản vệ có thể xẩy ra do đường dùng Thuốc khác nhau: vitamin B 1 dạng tiêm tĩnh mạch có thể gây sốc ch*t người, trong khi dạng uống không gây phản ứng này.
Người thiếu enzym glucose- 6- phosphat deshydrogenase (G-6-PD) hoặc glutathion reductase dễ bị thiếu máu tan máu khi dùng primaquin, quinin, pamaquin (xin xem bài " Thuốc chống sốt rét"), sulfamid, nitrofuran...
Gen kiểm tra việc tạo G- 6-PD nằm trên chromosom X, vì vậy, tai biến thường xảy ra ở nam.
Người ta ước lượng có khoảng 100- 200 triệu người mang gen này và thường gặp trên người da đen.
Người thiếu enzym methemoglobin reductase là những người dị hợp tử (khoảng 1% dân số). Khi dùng Thuốc sốt rét (pamaquin, primaquin), Thuốc kháng sinh, sát khuẩn (cloramphenicol, sulfon, nitrofurantoin), Thuốc hạ sốt (phenazol, paracetamol) rất dễ bị methemoglobin.
Người thiếu acetyl transferase sẽ chậm acetyl hóa một số Thuốc như hydralazin, isoniazid, phenelzin... nên dễ bị nhiễm độc các Thuốc này.
Hiện tượng đặc ứng (idiosyncrasy) là độ nhạy cảm cá nhân bẩm sinh với Thuốc chính là sự thiếu hụt di truyền 1 enzym nào đó.
Quen Thuốc là sự đáp ứng với Thuốc yếu hơn hẳn so với người bình thường dùng cùng liều. Liều điều trị trở thành không có tác dụng, đòi hỏi ngày càng phải tăng liều cao hơn.
Quen Thuốc có thể xảy ra tự nhiên ngay từ lần đầu dùng Thuốc do Thuốc ít được hấp thu, hoặc bị chuyển hóa nhanh, hoặc cơ thể kém mẫn cảm với Thuốc. Thường do nguyên nhân di truyền.
Thực nghiệm dùng những liều ephedrin bằng nhau, tiêm tĩnh mạch cách nhau từng 15 phút, sau 4- 6 lần, tác dụng gây tăng huyết áp giảm dần rồi mất hẳn. Một số Thuốc khác cũng có hiện tượng quen Thuốc nhanh như amphetamin, isoprenalin, adrenalin, histamin...
- Thuốc tác dụng gián tiếp qua sự giải phóng chất nội sinh của cơ thể, làm cạn kiệt chất nội sinh. Ephedrin, amphetamin làm giải phóng adrenalin dự trữ của hệ giao cảm.
- Tạo chất chuyển hóa có tác dụng đối kháng với chất mẹ: isoprenalin (cường β giao cảm) qua chuyển hóa ở gan, tạo ra 3- orthomethylisoprenalin có tác dụng huỷ β.
Sau một thời gian dùng Thuốc liên tục, tác dụng của Thuốc giảm dần, đòi hỏi phải tăng liều hoặc đổi Thuốc khác. Có nhiều nguyên nhân:
- Do gây cảm ứng enzym chuyển hóa Thuốc, làm những liều Thuốc sau bị chuyển hóa nhanh, mất tác dụng nhanh. Barbiturat, diazepam, tolbutamid, rượu ethylic... đều là những Thuốc gây cảm ứng enzym chuyển hóa của chính nó.
- Do giảm số lượng receptor cảm ứng với Thuốc ở màng tế bào (điều hòa giảm - down regulation): khi dùng Thuốc cường giao cảm, phó giao cảm kéo dài... Trái lại, khi dùng các Thuốc phong toả kéo dài sẽ làm tăng số lượng receptor (điều hòa tăng - up regulation) như dùng Thuốc huỷ β giao cảm, Thuốc an thần ức chế hệ dopaminergic. Khi ngừng Thuốc dễ gây hiện tượng hồi ứng (rebound).
- Do cơ thể phản ứng bằng cơ chế ngược lại dùng các Thuốc lợi niệu thải Na lâu, cơ thể mất nhiều Na sẽ tăng tiết aldosteron để giữ lại Na , làm giảm tác dụng lợi niệu.
Để tránh hiện tượng quen Thuốc, trong lâm sàng thường dùng Thuốc ngắt quãng hoặc luân phiên thay đổi các nhóm Thuốc (sẽ trình bày trong phần Thuốc cụ thể).
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
liều lượng những trạng thái tác dụng đặc biệt của thuốc tác dụng không mong muốn phụ