Thở oxy hay liệu pháp thở oxy là cho bệnh nhân khí thở vào có nồng độ oxy cao hơn nồng độ oxy khí trời (FiO2 > 21%).
Giảm oxy máu là tình trạng áp lực riêng phần của trong máu động mạch (PaO2) thấp hơn giá trị bình thường (<80 mmHg). Giảm oxy máu thường dẫn tới giảm oxy mô, toan chuyển hoá, loạn nhịp tim và suy các cơ quan sống.
Có thể tính gần đúng PaO2 khi bệnh nhân thở khí trời , ở độ cao ngang với mặt biển bằng công thức sau: (Sorbini,1968).
Thiếu oxy nặng: tím tái nhiều, thở chậm hoặc ngừng thở, loạn nhịp tim, tụt huyết áp, rối loạn ý thức.
Sinh hoá: người lớn, trẻ em và nhũ nhi > 28 ngày tuổi: PaO2< 80mmHg, SaO2< 95% (thở khí trời). Với trẻ sơ sinh: PaO2<50mmHg, SaO2<88%.
Đáp ứng của cơ thể với thiếu oxy là thở nhanh và sâu hơn (làm tăng công hô hấp), càng tiêu thụ nhiều oxy và giải phóng nhiều C02. Cung cấp oxy cho bệnh nhân giúp làm tăng oxy máu do đó giảm công hô hấp.
Cơ thể cũng đáp ứng với thiếu oxy bằng cách tăng nhịp tim và sức co bóp cơ tim, càng làm thiếu oxy thêm cho tim và dễ suy tim nếu tim phải làm việc lâu trong điều kiện thiếu oxy.
Ôxy liệu pháp không thay thế được thông khí nhân tạo trong trường hợp có chỉ định thông khí nhân tạo.
Cung cấp oxy được coi là một liệu pháp điều trị ít nguy hại. Phần lớn các bệnh nhân Tu vong vì thiếu oxy hơn là vì tai biến của điều trị oxy. Dù sao, các thày Thu*c lâm sàng cũng cần lưu ý và giảm tối thiểu các biến chứng của thở oxy.
Liên quan tới nồng độ và thời gian thở ôxy, thở ôxy với nồng độ càng cao(>60%),thời gian càng lâu thì càng dễ sớm bị ngộ độc ôxy.
Tình trạng này có thể xảy ra ở bn COPD, đối tượng có tăng C02 mạn tính, chính thiếu ôxy là một" động lực" thúc đẩy bệnh nhân thở. Do đó nếu làm tăng ôxy ở những bn này sẽ làm mất đi yếu tố đó và bn thở chậm và yếu.
Khi thở ôxy với nồng độ cao, khí nitơ trong phế nang (có tác dụng giữ cho phế nang không bị xẹp lại vào cuối thì thở ra) sẽ bị đẩy ra hết và có thể gây xẹp phế nang (xẹp phổi).
Trẻ sơ sinh đẻ non tháng rất dễ bị biến chứng mù, bong võng mạc khi được thở oxy nồng độ cao. (chỉ nên duy trì PaO2 trong khoảng 50 - 80 mmHg).
Thiết bị cung cấp ôxy dòng thấp là thiết bị chỉ đáp ứng một phần dòng hít vào của bệnh nhân. Kiểu thở và tần số thở sẽ ảnh hưởng tới FiO2.
Lưu lượng đỉnh thì hít vào bình thường là 24 – 30 l/phút. Các dụng cụ cung cấp oxy có dòng thấp hơn lưu lượng đỉnh hít vào của bệnh nhân được xếp vào hệ thống cung cấp oxy lưu lượng thấp.
Nồng độ oxy cung cấp (FiO2) phụ thuộc: Dòng oxy cung cấp (dòng cao có FiO2 cao), Vt (Vt thấp có FiO2 cao), tần số thở của bệnh nhân (tần số cao thì FiO2 thấp)
FiO2 cung cấp cho bệnh nhân có thể ước tính bằng cách cộng thêm 4% vào % của khí phòng khi dòng chảy tăng lên 1 lít/ph, ước tính này dùng FiO2 của khí phòng là 20% thay cho 21% thông thờng. Ví dụ : 1 canun mũi hoạt động với một dòng chảy 1 lít/ph cung cấp khoảng 20% (FiO2 của khí phòng) cộng với 4%, hoặc khoảng 24% (0,24), dòng chảy là 2 lít/ph thì FiO2 khoảng 28% (0,28).
Ưu điểm của canun mũi là tương đối thoải mái và dễ sử dụng, không ảnh hưởng đến ăn uống và không làm cản trở nói của bệnh nhân.
FiO2 cung cấp rất thay đổi, phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy (luu lượng) mà thiết bị được đặt và thông khí của bệnh nhân.
Ưu điểm của mặt nạ đơn giản là tương đối thoải mái cho bệnh nhân (bệnh nhân dễ chấp nhận), dễ dùng, cung cấp được FiO2 cao hơn so với thở oxy qua canun mũi.
Nguy cơ sặc nếu bệnh nhân nôn vào mặt nạ. Nếu mặt nạ không khít sẽ làm giảm FiO2 cung cấp. FiO2 cung cấp cũng phụ thuộc vào kiểu thông khí của bệnh nhân và tốc độ dòng chảy vào mặt nạ. Một số bệnh nhân không quen dùng có thể có cảm giác khó chịu khi dùng mặt nạ (cần giải thích cho bệnh nhân).
Mặt nạ đơn giản không bao giờ được dùng cho bệnh nhân với một tốc độ dòng chảy < 5 lít/phút. Nếu không CO2 sẽ tích lũy dần trong mặt nạ và bệnh nhân sẽ hít lại.
Mặt nạ hít lại một phần có 1 túi giữ khí để làm tăng FiO2 nếu đợc dùng đúng. Không như mặt nạ không hít lại, mặt nạ hít lại một phần không có van 1 chiều.
Mặt nạ hít lại một phần có các bất lợi giống như các mặt nạ khác, là nguy cơ sặc một khi bệnh nhân nôn, mặt nạ nông và nếu không khít sẽ gây khó chịu và có thể làm thay đổi FiO2.
Cũng có nguy cơ gây tích luỹ CO2 và để phòng hiện tượng này xảy ra, lưu lượng oxy phải đủ và giữ cho túi được đổ đầy 2/3 trong thì hít vào. Vì kiểu không khí của bệnh nhân có thể thay đổi, cần phải theo dõi bệnh nhân và điều chỉnh dòng chảy khi cần để giữ cho túi được đổ đầy.
Mặt nạ không hít lại được nối với 1 van 1 chiều và vì nó có thể cung cấp 100% là khí từ nguồn, nên nó thường đợc coi là một thiết bị có dòng chảy cao. Tuy nhiên do nó có thể không khít hoặc lưu lượng được đặt không đúng làm cho khí cấp cho bệnh nhân không phải là khí nguồn 100%, nên tốt nhất nó được phân loại là thiết bị dòng chảy thấp.
Bất lợi là mặt nạ có thể không khít và có thể sặc phổi nếu bệnh nhân nôn khi đang đeo mặt nạ. Phải theo dõi kiểu thông khí của bệnh nhân vì tăng biên độ và tần số thở có thể làm túi xẹp và FiO2 cung cấp tụt xuống và bệnh nhân hít lại CO2.
Thiết bị ôxy dòng cao là thiết bị đáp ứng được hoàn toàn dòng hít vào của bệnh nhân. Kiểu thở và tần số không ảnh hưởng tới FiO2.
Mặt nạ venturi sử dụng hiệu ứng venturi để trộn 2 hỗn hợp khí và tạo ra 1 dòng khí trộn rất lớn. Cấu tạo của mặt nạ venturi gồm một ống phụt được nối với nguồn oxy, một buồng trộn khí có cửa sổ trộn khí và mặt nạ. Khi dòng oxy đi qua ống phụt, thì tốc độ dòng oxy đi ra khỏi ống phụt được gia tốc lên nhiều lần. Với tốc độ rất cao, dòng oxy sẽ kéo theo khí trời qua cửa sổ buồng trộn để vào bên trong buồng trộn. Với mỗi một kích thước cửa sổ khác nhau ta có được tỷ lệ trộn khác nhau.
Thuận lợi : Fi02 chính xác. Thuận lợi này làm cho thiết bị này trở thành một thiết bị cung cấp oxy tuyệt vời được chọn dùng cho những bệnh nhân COPD, đối tượng đòi hỏi phải kiểm soát FiO2 chính xác để đảm bảo cung cấp oxy một cách an toàn.
Các bất lợi có thể có là nó có thể làm bệnh nhân không thoải mái và khó chịu, và nếu dòng chảy cung cấp cho dụng cụ này không may bị hạn chế hoặc bị tắc thì sẽ làm giảm lượng khí phòng đi vào và FiO2 cung cấp sẽ tăng.
Tần số thở của bệnh nhân < 25 l/ph.
Chủ đề liên quan:
thở ô xy