Bệnh biểu hiện bởi những dát, mảng giảm sắc tố so với vùng da xung quanh, không ngứa, không đóng vảy, giới hạn rõ. Đây là bệnh lành tính, không lây, và có ảnh hưởng nhiều về mặt thẩm mỹ.
Nguyên nhân gây còn chưa được biết rõ. Chỉ có một điều chắc chắn rằng bạch biến xuất hiện là do sự giảm số lượng và chất lượng của các tế bào sắc tố da ở vùng da bị bệnh. Một vài giả thuyết cho rằng có thể do ảnh hưởng của bệnh tự miễn hoặc có thể do di truyền, liên quan đột biến ở gen DR4, B13 hoặc BW35 của HLA. Các tự kháng thể xem các tế bào sắc tố như là các kháng nguyên và chống lại chúng, phá hủy tế bào sắc tố và làm giảm sản xuất sắc tố melanin. Khoảng 20-30% bệnh nhân bạch biến có tự kháng thể chống lại tế bào của tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến Sinh d*c, gan tụy nên một số bệnh nhân bạch biến có các bệnh lý kèm theo liên quan đến các cơ quan kể trên.
Biểu hiện chính của là những dát, mảng trắng, giới hạn rõ, mất sắc tố da so với những vùng da xung quanh do các tế bào sắc tố da ở đó đã không còn hoặc đã ngưng hoạt động. Vị trí thường xuất hiện của các mảng bạch biến là những vùng hở, phơi nhiễm với ánh sáng mặt trời như tay, chân, mặt, môi.
Da trên đám vẫn bình thường, không bị teo, không đóng vảy, cảm giác trên da không biến đổi, không đau ngứa, không tê dại. Lông trên đám cũng bị trắng.
Thể toàn thân: đây là thể bệnh phổ biến nhất. Các mảng thường xuất hiện ở nhiều vùng trên cơ thể và có tính chất đối xứng.
Thể phân đoạn: thường biểu hiện chỉ một bên hoặc một vùng trên cơ thể. Thể này có xu hướng xuất hiện ở những bệnh nhân trẻ tuổi hơn, chỉ tiến triển trong vòng 1 đến 2 năm.
Rất khó để dự đoán được tiến triển của bệnh. Đôi khi các mảng sẽ tự khu trú mà không cần điều trị. Trong hầu hết các trường hợp, các mảng da mất sắc tố sẽ lan rộng ra. Bệnh tiến triển mạn tính, có những đợt nặng lên, tổn thương thường nặng lên vào mùa hè, giảm đi vào mùa đông.
Đây là bệnh ngoài da hoàn toàn không lây cho những người xung quanh, bao gồm cả những người tiếp xúc gần gũi với người bệnh.
Bệnh vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu. Hiện việc điều trị còn nhiều khó khăn, chỉ mới dừng lại ở việc giải quyết triệu chứng.
Thu*c: Nhóm Thu*c có tác dụng tăng cảm ứng với ánh sáng toàn thân hoặc tại chỗ như chế phẩm có psoralen như meladinin, melagenin kết hợp với việc chiếu tia cực tím bước sóng ngắn hoặc dài tại vùng tổn thương. Các tác dụng phụ bao gồm chán ăn, tăng men gan, vàng da. Thu*c được bôi tại chỗ có thể làm cho đám bị đỏ rát phỏng nước nên có thể dùng kết hợp với các Thu*c chống viêm, chống dị ứng, ức chế miễn dịch. Thu*c được chỉ định ở những bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên.
Corticosteroid là Thu*c bôi được lựa chọn để phối hợp với các liệu pháp trị liệu khác như laser CO2, UVB phổ hẹp, dẫn xuất vitamin D3... đem lại hiệu quả điều trị tốt hơn, nhất là những trường hợp bạch biến khu trú. Tuy nhiên, vì tác dụng phụ mà Thu*c bị hạn chế sử dụng cho ở trẻ em và không nên sử dụng kéo dài trên 2 tháng.
Thu*c uống chống nắng: ở bệnh nhân bạch biến, chất lượng cũng như số lượng của tế bào sắc tố giảm sút nên khả năng bảo vệ cơ thể trước tác hại của ánh sáng mặt trời gây ra sự sụt giảm khả năng bảo vệ cơ thể dưới tác động của ánh sáng mặt trời. Ngoài việc sử dụng các Thu*c chống nắng dạng bôi ngoài da, người bệnh nên kết hợp cả dạng Thu*c uống chống nắng để tránh sự cháy nắng ở những vùng da giảm sắc tố.
Tư vấn tâm lý: Bệnh gây ra nhiều tác động lên tâm lý người bệnh, gây giảm sút chất lượng cuộc sống. Một số vấn đề người bệnh phải đối mặt bao gồm bất thường về tâm lý, khó khăn về T*nh d*c, băn khoăn, lo lắng và phối hợp các vấn đề trên. Do đó, việc tư vấn tâm lý trong điều trị là vô cùng quan trọng, cần nhấn mạnh để người bệnh hiểu rõ bệnh chỉ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ ít nguy hiểm đến tính mạng.
Cấy tế bào sắc tố da: Đây là phương pháp mới trong điều trị nhưng đòi hỏi chi phí và kỹ thuật cao nên không được áp dụng rộng rãi.
Tóm lại, là một bệnh lý ngoài da lành tính, có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Việc điều trị bệnh là một quá trình lâu dài cần sự phối hợp kiên trì giữa bệnh nhân và bác sĩ. Người bệnh cần giữ vững tâm lý, tránh bi quan lo lắng làm bệnh diễn tiến nặng hơn.